Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Văn hóa việt nam cuối thế kỷ xix - đầu thế kỷ xx qua tranh ảnh của người pháp.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Ƣ Ƣ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆ I H C
i
VĂN HÓA VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU
THẾ KỶ XX QUA TRANH ẢNH CỦA NGƯỜI
PHÁP
Đà Nẵng, 05/2016
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Kim Thoa
Chuyên ngành : ƣ phạm Lịch sử
Lớp : 12SLS
gƣời hƣớng dẫn : ThS. rƣơng rung hƣơng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi .................................................................................................6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề ..............................................................6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.............................................................7
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................8
7. Bố cục đề tài............................................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................9
ƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VIỆT NAM VÀ NHỮNG NGƢ I PHÁP
NGHIÊN CỨU VỀ VĂ HÓA VIỆT NAM QUA TRANH ẢNH CUỐI THẾ
KỶ XIX- ẦU THẾ KỶ XX ....................................................................................9
1.1. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.....................................9
1.1.1. Chính trị.............................................................................................................9
1.1.2. Kinh tế - xã hội................................................................................................11
1.1.3. Văn hóa ...........................................................................................................12
1.2. Những ngƣời Pháp nghiên cứu về văn hóa Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX ...............................................................................................14
1.2.1. Henri Oger (1885 - 1936)................................................................................14
1.2.2. Joseph Inguimberty (1896 - 1971) ..................................................................15
1.2.3. J.B. Piétri .........................................................................................................16
1.2.4. Leon Busy (1874 - ?).......................................................................................17
ƢƠNG 2. VĂ HÓA VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX - ẦU THẾ KỶ XX
QUA NGUỒN TƢ LIỆU TRANH ẢNH CỦA Ƣ I PHÁP ..........................19
2.1. Văn hóa vật thể.................................................................................................19
2.1.1. Ẩm thực...........................................................................................................19
2.1.2. Trang phục.......................................................................................................21
2.1.3. Nhà ở ...............................................................................................................30
2.1.4. Phương tiện đi lại ............................................................................................33
2.2. Văn hóa phi vật thể ..........................................................................................43
2.2.1. Phong tục.........................................................................................................43
2.2.2. Tín ngưỡng ......................................................................................................53
2.2.3. Nghệ thuật .......................................................................................................60
2.2.4. Kỹ thuật chế biến, chế tác, chữa bệnh.............................................................72
2.3. Nhận xét, đánh giá ...........................................................................................77
2.3.1. Tinh thần khoa học chân chính của những người Pháp nghiên cứu về văn hóa
Việt qua tranh ảnh .....................................................................................................77
2.3.2. Tranh ảnh của người Pháp là nguồn tư liệu quý giá để tìm hiểu văn hóa của
Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX .............................................................79
2.3.3. Phong tục, tín ngưỡng, trang phục là ba khía cạnh được quan tâm nhiều nhất...81
2.3.4. Hạn chế trong nguồn tranh ảnh của người Pháp .............................................82
2.3.5. Từ sự phản ánh hiện thực của tranh ảnh người Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX nghĩ về bảo tồn giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống ..........................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................88
1
PHẦN MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam.
Sau khi chính thức chiếm được nước ta thông qua hiệp ước Hácmăng (1883) và
hiệp ước Patơnnốt (1884), thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến
hành những cuộc khai thác đối với nước ta. Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 - 1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông
Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. Dưới chính sách đô hộ của
thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có nhiều biến đổi sâu sắc, trong đó có sự biến
đổi về văn hóa.
Có thể nói, trong giai đoạn này nền văn hóa của người Việt đang đứng trước
sự tác động mạnh mẽ của nền văn hóa phương Tây. Và điều đó đã tạo nên một đề
tài mới lạ, một nguồn cảm hứng vô tận cho các tác giả trong và ngoài nước sáng tác
nên các tác phẩm phản ánh về nền văn hóa của người Việt. Trên thực tế, đã có rất
nhiều tác phẩm ra đời trong giai đoạn này như: Việt Nam phong tục của Phan Kế
Bính, Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, hay Tín ngưỡng Việt Nam của
Toàn Anh… Qua đó, cho thấy người Việt vẫn giữ được nếp sống, phong tục truyền
thống của mình trước sự đô hộ của thực dân Pháp.
Ngoài nguồn tư liệu của các tác giả trong nước thì nguồn tư liệu của người
Pháp mà cụ thể là nguồn tư liệu tranh ảnh đã trở thành một minh chứng sống động
cho nền văn hóa đương thời của người Việt. Và đây là một nguồn tư liệu vô cùng
quý báu cần được gìn giữ và phát huy. Bởi trong giai đoạn này người Pháp có nhiều
điệu kiện thuận lợi cho việc đi lại cũng như khảo sát về thực địa của Việt Nam, nên
họ có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa người Việt. Nhờ đó họ đã thu lại
được khá nhiều những hình ảnh về phong tục, tập quán cũng như con người Việt
Nam thông qua khuôn khổ của những bức tranh, tấm ảnh. Những tác phẩm này có
lẽ xuất phát từ sự tò mò, thích thú của người Pháp, bởi với họ đây vốn là một nét
văn hóa hết sức lạ lùng khác hẳn so với văn hóa phương Tây. Chính sự hiếu kỳ đã
làm cho nguồn tư liệu của người Pháp trở nên đa dạng và phong phú hơn trên nhiều
2
phương diện khác nhau từ hình ảnh về phong tục, tập quán cho đến trang phục, nếp
sống thường ngày của cư dân Việt. Đây sẽ là một tư liệu cụ thể giúp cho bạn bè
quốc tế cảm nhận được toàn diện nền văn hóa của người Việt.
Rõ ràng các tác giả người Pháp đã để lại cho kho tàng văn hóa Việt Nam một
nguồn tư liệu vô cùng quý giá và có ý nghĩa trong mọi thời đại. Thế nhưng cho đến
hiện nay vẫn chưa có một công trình lớn nào viết riêng về nền văn hóa của Việt
Nam thông qua nguồn tư liệu tranh ảnh của người phương Pháp.
Hiện nay, với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì Đảng và nhà
nước ta rất quan tâm đến vấn đề giữ gìn và phát huy nền văn hóa của dân tộc. Theo
đó, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao” [9, tr.75-76]. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc, giúp
chúng ta nhận thức lại những giá trị văn hóa cổ truyền để gìn giữ và xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX qua tranh ảnh của người Pháp” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hóa Việt Nam qua tranh ảnh của người Pháp bước đầu đã được các nhà
nghiên cứu trong nước quan tâm tìm hiểu. Tiêu biểu là một số công trình như sau:
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phó giáo sư - Tiến sĩ
Khoa học Trần Ngọc Thêm, xuất bản năm 2001 là một tác phẩm tập trung khá sâu
vào các yếu tố văn hóa của dân tộc Việt Nam. Về văn hóa tổ chức cộng đồng, tác
giả đi vào khảo cứu hai lĩnh vực là đời sống tập thể với các tổ chức từ nông thôn
3
đến đô thị và quốc gia. Còn đời sống cá nhân với các loại hình về tín ngưỡng, phong
tục, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ngôn từ - thanh sắc - hình khối. Trong đó, tác giả
cũng đã sử dụng bộ tranh khắc của Henri Oger về tục tang ma để giúp người đọc có
một cái nhìn khách quan và khá đầy đủ về những công việc cụ thể mà người Việt
tiến hành trong nghi thức tang ma. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ dừng lại ở việc sử dụng
bộ tranh của Henri Oger về phần tang ma chứ chưa đi sâu vào các nội dung khác
như các phong tục về việc cưới hỏi, sinh đẻ hay một số phong tục khác.
Trong cuốn “Làng quê và dân làng ở Bắc Kỳ 1915 - 1920” của tác giả Jeanne
Beausoleil (do Đức Chính dịch), xuất bản năm 1986. Với các bài viết theo từng chủ
đề khác nhau, tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của phong cảnh
và nếp sống hàng ngày của cư dân vùng Bắc Kỳ thông qua những bức ảnh màu lấy
từ “Kho tư liệu hành tinh” của Albert Kahn. Có thể nói, từ những bức ảnh màu về
vùng quê Bắc Kỳ được chụp lại vào khoảng những năm 1910 - 1920, tác phẩm đã
dựng lên bức tranh văn hóa Việt hết sức cụ thể và sinh động mang nhiều phương
diện khác nhau từ phong cảnh làng quê cho đến phong tục, tín ngưỡng của cư dân
nơi đây. Tuy nhiên, do bút pháp Việt và Pháp cũng có nhiều dị biệt. Do đó tác phẩm
vẫn chưa lột tả được toàn bộ ý nghĩa vốn có của nền văn hóa Việt thông qua những
bức ảnh màu trong “Kho tư liệu hành tinh” của Albert Kahn.
Hay cuốn “Việt Nam phong tục” của tác giả Phan Kế Bính, xuất bản năm
1915. Tác giả đã sử dụng những bức ảnh màu của Léon Busy để làm cho những bài
viết của mình về văn hóa của người Việt trở nên cụ thể và sinh động hơn. Tuy
nhiên, tác giả chỉ sử dụng một số bức ảnh màu đáng chú ý của Busy về phong tục
tập quán, tín ngưỡng để minh họa cho tác phẩm của mình chứ chưa đề cập đến một
số bức ảnh khác của Busy về trang phục hay thói quen hằng ngày của cư dân việt
như hút thuốc, uống rượu.
Công trình nghiên cứu khoa học “Vài nét sinh hoạt của người Việt ở đồng
bằng Bắc Bộ đầu thế kỷ XX qua công trình Kỹ thuật của người An Nam của Henri
Oger” của sinh viên khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm, Đại học Đà Nẵng thực
hiện năm 2010. Trong công trình này, tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh và Nguyễn Thị
Hải Yến đã dựa trên tranh khắc của Henri Oger để giúp cho người đọc cảm nhận
được cuộc sống đời thường của cư dân Việt xưa, họ vui chơi giải trí ra sao, buôn
4
bán làm ăn như thế nào. Tất cả đều được tác giả miêu tả chi tiết theo trình tự của các
bức ảnh được lấy từ công trình của Henri Oger. Tác giả còn đi sâu vào những nét
văn hóa đặc sắc của người dân Bắc Bộ trong những ngày hội lớn, lễ tết hay những
phép bói toán, phong tục kì lạ của người dân nơi đây. Tuy nhiên, công trình chỉ
dừng lại ở các mảng văn hóa như đã nói trên, chứ chưa đi vào phân tích những yếu
tố khác của nền văn hóa Việt Nam qua bộ tranh của Henri Oger.
Trong Hội thảo khoa học: “TP. Hồ Chí Minh hướng về 1000 năm Thăng Long
- Hà Nội” diễn ra vào ngày 23/9/2010, tác giả Lê Thị Thu Hiền - giảng viên trường
Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã có bài viết với đề tài: “Phong tục người Hà
Nội đầu thế kỷ XX qua tranh khắc của Henri Oger”. Bài viết đã góp phần tái hiện
lại một cách chi tiết và khá sinh động về những phong tục truyền thống của người
Hà Nội nói chung và người Việt nói riêng trong thế kỷ XX qua bộ tranh khắc đặc
sắc của Henri Oger. Thông qua bộ tranh đó tác giả đã làm nổi bật được toàn bộ nội
dung cũng như ý nghĩa của những phong tục truyền thống mà Henri Oger muốn gửi
gắm qua tác phẩm của mình. Đó là những phong tục về việc cưới xin, sinh đẻ, tang
ma, phong tục ngày tết và một số phong tục khác như: ăn trầu, bói toán, bùa chú…
Đồng thời qua bài viết này cùng với bộ tranh khắc của Henri Oger đã giúp bạn đọc
hình dung ra một phố cổ Hà Nội đầu thế kỷ XX vẫn mang dáng dấp một đô thị -
làng với nhiều sinh hoạt văn hóa cổ truyền thống. Tuy nhiên bài viết chỉ mới dừng
lại ở việc nghiên cứu về phong tục của người Hà Nội qua tranh khắc của Henri Oger
chứ chưa đi sâu nghiên cứu về các thành tố văn hóa khác trong văn hóa của Việt
Nam mà Heri Oger đã thể hiện qua tác phẩm của mình.
Ngoài ra, trên các tạp chí, các trang báo điện tử cũng có một số bài viết về văn
hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX qua tranh ảnh của người Pháp, tiêu
biểu như bài viết “Phụ nữ Bắc Kỳ xưa qua con mắt người nước ngoài” của tác giả
Đào Hùng được đăng trên báo “Sống mới văn hóa”, tháng 10 năm 2013. Bài viết đã
trích dẫn, ghi chép lại cảm nhận và những bức tranh về trang phục của người phụ nữ
Bắc Kỳ mà Charles-Édouard Hocquard - một vị bác sĩ quân y người Pháp thực hiện
khi ông đến Hà Nội những ngày đầu tiên. Tuy nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu về trang phục của phụ nữ Bắc kỳ qua các bức tranh và cảm nhận của
Hocquard chứ chưa thật sự đi sâu nghiên cứu về các khía cạnh khác trong văn hóa
5
của người Bắc Kỳ. Hay bài viết “Họa sĩ Pháp đã vẽ Việt Nam như thế nào” của tác
giả Bích Ngọc được đăng trên trang “Diễn đàn Dân trí Việt Nam” ngày 11/05/2015.
Bài viết đã trích dẫn một loạt các bức tranh của họa sĩ người Pháp - Joseph
Inguimberty về hình ảnh con người, đất nước Việt Nam cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ
20. Thông qua những bức tranh đó, tác giả Bích Ngọc đã khơi gợi trong tâm hồn
người đọc về hình ảnh của những người con gái Việt Nam thướt tha trong bộ áo dài
cùng chiếc nón lá mộc mạc ở những thập niên đầu của thế kỷ XX. Hay hình ảnh của
những cô gái Bắc Kỳ đang hồ hởi bước đi cho kịp phiên chợ, cùng những hình ảnh
về nếp sống hàng ngày của một gia đình nhỏ ở Bắc Kỳ. Tuy nhiên, với dung lượng
của một bài viết trên các trang báo mạng thì tác giả không thể đi sâu làm nổi bật
toàn bộ mọi khía cạnh trong nền văn hóa độc đáo của Việt Nam thông qua tác phẩm
của họa sĩ Joseph Inguimberty.
Liên quan đến đề tài còn có bài viết “Trò chơi, phong tục và nghề nghiệp”,
trong tạp chí Đông Dương xuất bản ngày 15/5/1907. Tác giả Gustave Dumortier đã
giới thiệu một loạt các nghề thủ công dưới dạng các bản chuyên khảo ngắn được
minh họa bằng hình vẽ tái hiện lại một thao tác kỹ thuật, một công đoạn sản xuất
trong một xưởng sơn mài. Các hình vẽ ở bài viết của tác giả chỉ có giá trị minh họa
chứ không phải để làm nền cho sự mô tả hay phân tích cụ thể nào.
Bài viết “Cuộc sống người An Nam trong con mắt Henri Oger” của tác giả
Thu Hằng được đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam ngày 1/5/2015. Trong
bài viết này, tác giả Thu Hằng đã trình bày một cách chi tiết về những thuận lợi và
khó khăn của Henri Oger trong quá trình thực hiện tác phẩm “Kỹ thuật của người
An Nam”. Đồng thời, tác giả còn đi vào phân tích công trình nghiên cứu của Henri
Oger. Theo tác giả, phương pháp phân loại của Henri Oger khá sơ lược. Ông nhấn
mạnh cần thiết phải sắp xếp theo bốn nhóm chính và theo trình tự thời gian nội
dung phân tích các quy trình kỹ thuật. Tuy nhiên, tác phẩm lại cho kết quả ngược
lại. Các tư liệu thu thập từ thực địa không hề được quan tâm trình bày theo trật tự.
Chỉ cần ngẫu nhiên mở một trang, độc giả có thể nhận thấy điều này. Ví dụ, tờ 460,
có tám hình ảnh gồm “đứa trẻ đun nước”, “cái nhà”, “người làm giấy”, “dọn cơm”,
“hút thuốc lào” và “hộp khám thờ gia tiên”. Thế nhưng, nhờ bảng tổng hợp cuối
sách, người đọc có thể tìm hiểu ngành nghề thủ công của người Việt qua số thứ tự
6
của hình ảnh. Mặc dù bài viết này là một sự nhìn nhận khá chi tiết của tác giả đối
với tác phẩn của Henri Oger, nhưng với dung lượng của một bài viết thì nó vẫn
chưa đi sâu phân tích nhiều phương diện khác trong tác phẩm của Henri Oger.
Các tài liệu nói trên đề cập đến phần nào về văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX qua tranh ảnh của người Pháp, chủ yếu tập trung ở việc mô tả
lại một số phong tục truyền thống hay một vài nét văn hóa của người Việt thông qua
tranh ảnh của người Pháp, chứ chưa thực sự đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống. Tuy nhiên, những tài liệu này hết sức quan trọng và cần thiết để tôi kế thừa,
vận dụng trong công trình khóa luận của mình.
3. ối tƣợng, phạm vi
3.1. ối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX qua tranh ảnh của người Pháp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về không gian: Khi nghiên cứu đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu
về văn hoá của Việt Nam qua tranh ảnh của người Pháp từ cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX trên phạm vi cả nước.
- Giới hạn về thời gian: Đề tài nghiên cứu văn hóa Việt Nam qua tranh ảnh
của người Pháp từ năm 1888 đến năm 1943.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX qua
tranh ảnh của người Pháp” nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống về văn hóa Việt
Nam qua tranh ảnh người Pháp khi đặt chân đến đất nước Việt Nam, tiếp xúc với
con người Việt, bao gồm văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần.
Đồng thời, kết quả đề tài sẽ giúp người Việt Nam hiểu rõ hơn về những nét
đặc sắc trong văn hóa truyền thống của dân tộc. Từ đó, có những suy nghĩ và hành
động cụ thể trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc
7
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề
chính sau:
- Văn hóa vật thể của người Việt: gồm có các yếu tố văn hóa về ẩm thực, về
trang phục, nhà ở, phương tiện đi lại.
- Văn hóa phi vật thể của người Việt: gồm các yếu tố văn hóa về phong tục,
tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật, kỹ thuật chế biến, chế tác, chữa bệnh dân gian.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn ư liệu
Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng những nguồn tư liệu chủ yếu sau:
- Các công trình liên quan đến văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX qua tranh ảnh của người Pháp như: Tác phẩm “Kỹ thuật của người An Nam”
của Henri Oger, “Thuyền buồm Đông Dương” của J.B. Piétri, “Ký họa về Đông
Dương Nam Kỳ” do J.G. Besson chỉ đạo thưc hiện, “Làng quê và dân làng ở Bắc Kỳ
1915 - 1920” của tác giả Jeanne Beausoleil, Tập san BAVH - “Những người bạn cố
đố Huế”, do Linh mục Léopold Cadière làm chủ bút, tập VI.
- Những tác phẩm của học giả Việt Nam viết về văn hóa dân tộc mình như:
“Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Ngọc Ánh, “Văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc
Thêm, “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính.
- Các bài viết trên tạp chí, hội thảo khoa học về văn hóa Việt Nam.
- Các bài viết trên mạng liên quan đến văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX qua tranh ảnh của người Pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp lôgic và
lịch sử để xem xét các sự vật hiện tượng, kết hợp với các phương pháp khác như
thống kê mô tả, phân tích, tổng hợp. Vận dụng các phương pháp đó, trong quá trình
nghiên cứu tôi thực hiện đề tài qua các bước sau:
8
- Thứ nhất: Tìm kiếm, sưu tầm, tổng hợp tư liệu cần thiết, phù hợp với nội
dung nghiên cứu của đề tài. Tôi sử dụng các nguồn tư liệu đang được lưu trữ tại các
thư viện ở Đà Nẵng. Ngoài ra, tôi còn tìm kiếm tư liệu thông qua thầy cô, bạn bè…
- Thứ hai: Sau khi thu thập đầy đủ tư liệu, tôi tiến hành phân tích, thống kê các
nguồn tư liệu để tìm ra được tính toàn vẹn, chính xác, phát hiện ra các vấn đề liên quan
từ đó rút ra những kết luận cần thiết liên quan đến nội dung của đề tài nghiên cứu.
6. óng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu về đề tài “Văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX qua tranh ảnh của người Pháp” sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn về văn hóa Việt
Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX qua tranh ảnh của người Pháp.
Với những kết quả đạt được, đề tài sẽ có đóng góp nhất định giúp mọi người
có cái nhìn sâu sắc, đúng đắn hơn về giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc. Đồng thời,
góp phần nâng cao nhận thức của mọi người trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy
những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc hội nhập thế giới ngày nay.
Ngoài ra, đề tài nghiên cứu thành công sẽ cung cấp và bổ sung thêm nguồn tư
liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và học tập cho học sinh, sinh viên
và những ai quan tâm đến vấn đề này
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài bố cục thành
hai chương:
Chương 1: Tổng quan về Việt Nam và những người Pháp nghiên cứu về văn
hóa Việt Nam qua tranh ảnh cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Chương 2: Văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX qua nguồn tư
liệu tranh ảnh của người Pháp
9
PHẦN NỘI DUNG
ƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VIỆT NAM VÀ NHỮNG Ƣ I PHÁP
NGHIÊN CỨU VỀ VĂ HÓA VIỆT NAM QUA TRANH ẢNH
CUỐI THẾ KỶ XIX- ẦU THẾ KỶ XX
1.1. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến
độc lập với một nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Nhưng sau ngày 1/9/1858, thực
dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tại cửa biển Đà Nẵng và hiệp định Patonot
được kí kết năm 1884, đã đánh dấu Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến. Khoảng thời gian 10 năm tiếp theo đó từ năm 1885 đến năm 1896, thực dân
Pháp đã ra sức đàn áp phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam, dập
tắt được phong trào Cần Vương và căn bản hoàn thành công cuộc chinh phục Việt
Nam. Dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân đã làm cho nền chính trị, kinh tế cũng
như xã hội và văn hóa ở Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc.
1.1.1.Chính trị
Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị
thực dân để tiến hành khai thác và vơ vét bóc lột nhân dân ta. Chúng tiếp tục thi
hành chính sách chuyên chế với bộ máy nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm
trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc
Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống xứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy
quân đội, cảnh sát, tòa án… Chúng biến vua Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Đồng
thời để đảm bảo thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp đã thi hành chính sách cai trị
trực tiếp, bóp nghẹt tự do dân chủ và thẳng tay đàn áp, khủng bố và dìm các cuộc
đấu tranh của nhân dân ta trong biển máu. Lúc này, nhân dân không có bất kỳ một
quyền lợi nào, kể cả quyền cơ bản nhất mà mọi công dân đều được hưởng đó là
quyền được sống. Chúng còn tiếp tục thi hành chính sách chia để trị hòng làm suy
yếu dân tộc Việt Nam. Theo đó, nước ta bị chia thành ba kỳ với ba chế độ cai trị
khác nhau: Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ vẫn giữ lại chính quyền phong kiến về
hình thức; Nam Kỳ là thuộc địa do Pháp nắm, thực chất của chế độ cai trị ở ba kỳ là
10
chế độ thuộc địa. Người Việt Nam muốn đi lại trong Nam ra Bắc, vào Trung đều
phải xin như ra nước ngoài.
Từ năm 1894, ngân sách Nam triều bị sát nhập vào ngân sách bảo hộ. Từ vua
đến quan lại nhỏ lớn đều do Pháp sắp đặt và trả lương. Tóm lại, vua tôi nhà Nguyễn
hoàn toàn chỉ là bù nhìn, là những công chức lĩnh lương tháng của thực dân, quyền
hành thực tế đều nằm trong tay viên khâm sứ Pháp.
Dưới cấp kỳ là cấp tỉnh. Cuối năm 1919, Bắc Kỳ có 21 tỉnh, 2 thành phố Hà
Nội, Hải Phòng. Trung Kỳ, có 13 tỉnh, 1 thành phố Đà Nẵng. Nam Kỳ có 14 tỉnh và
có 2 cấp tương đương là đại Gò Công và Hà Tiên, cùng hai thành phố Sài Gòn, Chợ
Lớn. Đứng đầu mỗi tỉnh Nam Kỳ là một viên chủ tịch, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ là
một viên công sứ, tất cả là người Pháp. Đứng đầu mỗi đạo quan binh là một viên sĩ
quan cao cấp người Pháp. Mỗi tỉnh có một hội đồng hàng tỉnh. Các hội đồng hàng
tỉnh cũng chỉ có quyền góp ý kiến về các vấn đề có tính chất kinh tế, xã hội, phân
chia các khu vực địa lý, bảo quản và xây dựng đường sá, đê điều… còn mọi điều
thỉnh nguyện có tính chất chính trị thì tuyệt đối cấm không được đề cập đến. Ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ, bên cạnh quan lại người Pháp, còn có những quan lại người Việt,
như tổng đốc (ở những tỉnh lớn), tuần phủ (ở những tỉnh nhỏ) và những viên bố
chánh, án sát…
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, có chi phủ, tri huyện, chi châu cai trị. Riêng ở
Nam Kỳ có đốc phủ sứ người Việt nhưng đều do Pháp đào tạo, bổ dụng. Dưới phủ,
huyện, châu là các tổng, do chánh tổng, phó tổng cai quản. Trong tổng có các xã, do
lý trưởng và hội đồng kỳ hào quản trị.
Thực dân Pháp duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dụng bộ máy kỳ hào phong
kiến để thu thuế, bắt phu, bắt lính đàn áp nhân dân, cũng như lợi dụng những phong
tục, tập quán lỗi thời, lạc hậu kìm hãm nhân dân trong vòng lạc hậu để dễ bề thống trị.
Như vậy là từ cấp xã trở lên cho đến cấp phủ, huyện, đạo, châu, thực dân Pháp
đều sử dụng địa chủ phong kiến và bộ máy thống trị cũ, làm công cụ để áp bức, bóc
lột nhân dân Việt Nam. Còn cấp tỉnh trở lên thì quyền lực tập trung vào tay viên
quan lại người Pháp, vua quan người Việt chỉ là bù nhìn.
11
1.1.2.Kinh tế - xã hội
1.1.2.1.Kinh tế
Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị
thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột
nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Theo đó, từ năm 1887,
thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Do tác động
của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, nên lúc bấy giờ ở Đông Dương hệ thống
cầu cống, đường xá đã được xây dựng khá nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
khai thác thuộc địa. Chính vì thế ngay sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914
- 1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông
Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế
Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị
mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Đồng thời thực dân Pháp còn
mở thêm một số ngành kinh tế mới, thu hồi ruộng đất để xây dựng nhà máy xí
nghiệp. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư
bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết
hợp phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì
thế, nền kinh tế của Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề
vào kinh tế Pháp.
Có thể thấy dưới chính sách của thực dân Pháp, tính chất nền kinh tế và xã hội
Việt Nam có những biến đổi. Nền kinh tế Việt Nam từ một nền kinh tế phong kiến
độc lập đã trở thành một nền kinh tế mang tính chất tư bản thực dân và một phần
phong kiến. Sự biến đổi tính chất nền kinh tế đã quy định sự biến đổi tính chất xã
hội. Xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập đã biến đổi thành xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, trong đó các giai cấp và tầng lớp trong xã hội bị phân hóa
sâu sắc, kéo theo sự biến đổi của các mâu thuẫn đối kháng.
1.1.2.2.Xã hội
Như đã nói trên, sự biến đổi về kinh tế dưới chính sách thống trị của thực dân
Pháp cũng làm cho xã hội Việt bắt đầu có sự phân hóa về giai cấp. Giai cấp địa chủ
12
được thực dân Pháp nâng đỡ nên thế lực kinh tế, chính trị của giai cấp được tăng
lên. Ngoài địa chủ Pháp, địa chủ nhà thờ, địa chủ quan lại, địa chủ thường, còn xuất
hiện thêm các địa chủ kiêm công thương. Địa chủ Việt Nam phát triển hơn trước trở
thành chỗ dựa đắc lực cho thực dân Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa và
duy trì trật tự xã hội.
Giai cấp nông dân là giai cấp cũ chiếm tới 90% dân số, đại bộ phận là mù chữ,
họ bị bóc lột hết sức tàn tệ cho nên sự căm phẫn trong họ không ngừng phát triển.
Vì vậy, giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên
phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình trong sự nghiệp
đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp công nhân là giai cấp mới được hình thành trong lòng chế độ tư bản
chủ nghĩa. Những công trường, xí nghiệp mọc lên thu hút đông đảo số lượng công
nhân, năm 1909, tổng số công nhân toàn quốc lên đến 550.000 người. Làm việc
trong guồng máy tư bản chủ nghĩa, kỹ thuật hiện đại, có tinh thần đấu tranh chống
kẻ thù chung..., công nhân Việt Nam đã có các điều kiện cần và đủ để hình thành
giai cấp. Tuy vậy, thời kỳ này công nhân nước ta đang còn ở giai đoạn tự phát.
Ngoài ra, đầu thế kỷ XX còn xuất hiện tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị. Vì bị
thực dân Pháp chèn ép nặng nề, tư sản Việt Nam phát triển chậm chạp về mọi mặt,
chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Tuy vậy, sự phát triển của kinh tế tư
bản chủ nghĩa nói chung và sự lớn lên của tầng lớp tư sản dân tộc nói riêng đã trở
thành cơ sở thuận lợi cho sự tiếp thu các trào lưu tư tưởng cách mạng từ bên ngoài
dội vào.
1.1.3.Văn hóa
Trên lĩnh vực văn hóa, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách văn hoá nô lệ
gây tâm lý vong bản, tự ti và thủ đoạn phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan để mê
hoặc nhân dân, thực dân Pháp ra sức ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá tiến
bộ Pháp vào Việt Nam, đem văn hoá phản động, truỵ lạc nhồi sọ nhân dân nhằm
làm cho dân ngu để dễ cai trị, đó là chính sách các nhà cầm quyền Pháp ưa dùng
nhất ở các nước thuộc địa.