Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Văn hóa tộc người và tôn giáo ở Đông Nam Á
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Charles F. Keyes
VĂN HÓA
T Ộ C NGƯỜI ỴẢ TÔN GIÁO
Ở ĐÔNG NAM Á
VĂN HÓA TỘC NGƯỜI VÀ TÔN GIÁO
Ở ĐÔNG NAM Á
' ^ S ^ C H G / A 0 / / V / y V.
gạch QànQ
Dịch và hiệu đính:
Hoàng Câm
Trương Huyền Chi
Đào Thế Đức
Dưcmg Bích Hạnh . ,
Nguyễn Thị Hong Hạnh
Trương Thị Thu Hằng
Nguyễn Thị Hiền
Ngô Hoàng
Ngô Thị Phương Lan
Vũ Tuyết Lan
Đặng Minh Ngọc
Phạm Quỳnh Phương
Lê Thanh Sang
Nguyễn Văn Thắng
Đoàn Thị Tuyến
Biên tập:
Nguyễn Thị Phương Châm
Đào Thế Đức
Dương Đình Giao
HỘI VĂN NGHỆ DẰN GIAN V IỆ T NAM
CHARLES F. KEYES
VĂN HÓA TỘC NGƯỜI
VÀ TÔN GIÁO Ở ĐÔNG NAM Á
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
MỤC LỤC
- DẪN LUẬN: TỘC NGƯỜI, GIỚI VÀ TÔN GIÁO - MỘT HỔI ứ c .............................................. 6
- THUYẾT THIÊN NIÊN, PHẬT GIÁO THƯỢNG TỌA BỘ VÀ XÃ HỘI THÁI................................... 15
- MA LỰC: Từ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ĐỂN TIỄU sử LINH THIÊNG.............................................. 45
- HÀNH VI KINH TẾ VÀ ĐẠO LÝ PHẬT GIÁO ở MỘT LÀNG NGƯỜI THÁI.................... 75
- Từ Tử ĐẼN SINH: NGHI LÊ VÀ Ý NGHĨA PHẬT GIÁO ở VÙNG BẦC THÁI LA N .......................... 106
- LÀ MẸ HAY NHÂN TÌNH NHƯNG KHÔNG LÀ NI:
QUAN NIỆM PHẬT GIẤO VẼ NỮ GIỚI ở NÔNG THÔN THÁI LA N ........................................ 144
- GIỚI Mơ HỔ: LẼ THÀNH NIÊN CHO ĐÀN ÔNG TRONG XÂ HỘI PHẬT GIÁO.............................. 182
- TIẾN TỚI VIỆC HÌNH THÀNH MỘT QUAN NIỆM MỚI VÉ NHÓM TỘC NGƯỜI.............................. 218
- NGƯỜI THÁI LÀ AI? SUY NGHĨ VÉ sự SÁNG TẠO BẢN SÁC ĐỊA PHƯƠNG, TỘC NGƯỜI VÀ DÂN TỘC.....236
- "CÁC DÂN TỘC ở CHÂU Á": KHOA HỌC VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG PHÂN LOẠI TỘC NGƯỜI ở THÁI LAN, TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM ........................... 273
- TỘC NGƯỜI VỚI CÁC QUỐC GIA - DÂN TỘC THÁI LAN VÀ VIỆT N AM ................................. 347
- THẾ GIỚI ĐƯỢC ĐÉ XUẤT CỦA TRƯỜNG HỌC: sự GIA NHẬP CỦA
DÂN LÀNG THÁI LAN VAO HỆ THỐNG NHÀ Nước QUAN LIÊU.......................................... 411
-WEBER VÀ NHÂN HỌC.................................................................................. 460
-LỜI BẠT 497
DẪN LUẬN:
TỘC NGƯỜI, GIỚI VÀ TÔN GIÁO -
MỘT HỒI ỨC
Nhập đề
Vào năm 1987-1988, tôi có cơ hội lân dâu tiên đến Việt Nam. Lúc
dó tôi la Tmơng phái đoàn khoa học Mỹ, dược Hội dóng Ng en cứu
Khoa học X í hột tài trợ, đen tìm hiêu việc thiết lập qmin hệ giữa các
viện nghiên cứu cùa Việt Nam và Mỹ. Nỗ lực ban dán này dã clumg
tỏ rất hữu ích không chi ưong việc đặt nền tảng cho ưng ng en
cứu học ửiùậ. rT v iệ t Nam g ỉn vài v ồ c mó
học giả việt Nam và Âu-Mỹ' m i còn dẫn dắt têi tìm kiếm mộ
cá nhân trong những cuộc đoi thoại này.
Trong thập niên kế tiếp, tôi tham gia ngày càng nhiều vào nhũng
dự án, phan lơn do Quy Ford tài trợ, và cũng gắn với sự họp tác giữa
Trung tâm Khoa học Xã hội và Phát triển bền vững của khu vực ở Đại
hộc Chiang Mai (Thái Lan) và Khoa Nhân học Xã hội thuộc Đại học
Grthenburg (Thụy Điển)7mở các lóp đào tạo về nhân học và các khoa
học xã hội khác cho các nghiên cứu viên trẻ của Viẹt Nam. OI ra
may mắn tìm kiếm được nguồn hỗ trợ cho một so - tong so ve sau e
tới chín - người Việt Nam theo học chương trinh nghiên cưu s tie
sĩ nhân học ở Đại học YVashington. Một vài ngươi trong so nhưng
nghiên cứu sinh đó đã đóng góp đáng kê cho hợp tuyen nay. Toi
cũng đã tham gia vào những nỗ lực ở cả Đại học VVashington lan ca
dự án hợp tác ở Việt Nam trong việc hỗ trợ đào tạo mọt so nha khoa
học xã hội Việt Nam khác.
^ lon8 qua những trao đổi học thuật vói các sinh viên nói trên và
g nghiẹp o một số viện nghiên cứu ở Việt Nam (nổi bật là Viện
g en cưu Van hoa, Viện Dân tộc học thuộc Viện Khoa học Xã hội
arĩì/ ®ao *an8 Đân tộc học Việt Nam, và Khoa Nhân học thuộc
rương Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh), tôi
7
ngày càng quan tâm đến xã hội và văn hóa Việt Nam. Những hao đổi
đó cũng như những trài nghiệm thực tế của bản thân ở Việt Nam đã
dẫn tôi đến chỗ tư duy lại về một số quan điểm của mình về biến đổi
văn hóa xã hội, và cũng cho tôi cơ hội hình bày suy nghĩ của mình với
các học giả Việt Nam.
Là một học viên sau đại học về nhân học và nghiên cứu Đông
Nam Á ở Đại học Cornell vào đầu thập niên I960, tôi đã hình thành
niềm tin sâu sắc vào một phương thức học thuật mà thông qua đó
những ý tưởng lý thuyết được làm cho thích ứng và thậm chí thay
đổi để phù hợp với hiện thực cuộc sống của người dân sống tại
những nơi chốn nhất định trong những thời điểm nhất đinh. Khác
vói một số nhà khoa học xã hội khác, tôi chưa từng xem lý thuyết
khoa học xã hội là mục đích tự thân. Thay vào đó, tôi coi lý thuyết là
phương tiện để đào sâu hiểu biết về những thế giới văn hóa xã hội
được định vị trong lịch sử. Với tư cách một nhà nhân học, tôi đã tìm
thấy những thế giới đó chủ yếu thông qua điền dã dân tộc học,
nhưng tôi cũng đã mở rộng tầm nhìn của minh đến những thế giới
được trình bày trong sử liệu.
Những thế giới mà tôi tìm tới đê khám phá đầu tiên được tìm
thay ở Thái Lan. Tôi đã dành phần lớn sự nghiệp nghiên cứu của
mình đê nghiên cứu về Thái Lan, và phần lớn các bài viết trong họp
tuyển này cho thấy sự gắn bó dài lâu của tôi với dân tộc học và sử
học Thái. Mặc dù tôi đến Thái Lan vào năm 1962 với sự chuẩn bị tot
nhat tôi có thê có, nhưng chính trải nghiệm nghiên cứu đien dã một
làng ở Đông Bắc Thái Lan đã khẳng định hướng nghiên cứu của tôi
vào một số van đề tôi tập trung theo đuổi suốt sự nghiệp của minh.
Dân tộc học, sử học và lý thuyết
Thông qua tham khảo tài liệu trước khi tới Thái Lan, tôi đã biet
rằng vùng Đông Bắc Thái Lan là nơi sinh sống chủ yếu của cư dân gần
gũi về mặt ngôn ngữ và văn hóa với cư dân tại vùng thung lũng sông
Mekong ở Lào hơn là với người sống ở miền Trung Thái Lan. Chỉ đên
khi đã sống một thời gian dài ở Bản Nông Tủn, tôi mới nhận ra rằng
những người cùng chia sẻ ngôn ngữ và văn hóa không nhất thiết phải
có chung một bản sắc. Trong một chuyên khảo và các bài viết về vùng
Văn hóa tộc người và tôn giáo ở Đông Nam Á
8 Charles F. Keyes
nông thôn Đông Bắc Thái Lan, tôi đã cắt nghĩa về mối liên hệ giữa
hành xử ngôn ngữ và văn hóa, bản sắc tộc người và dân tộc.
Tôi đã theo đuổi cùng một chủ đề này khi đề cập đến các dân tộc
khác nhau ở Thái Lan, Lào, Vân Nam (Trung Quốc) và Việt Nam, nơi
tôi lần lượt tiến hành nghiên cứu điền dã. Mỗi một bài viết của tôi
đều dẫn tới việc tư duy lại các khái niệm lý thuyết về mối liên hệ giữa
các bản sắc địa phương, tộc người và dân tộc, và về tính chính trị của
bản sắc. Một trong những nỗ lực sớm nhất của tôi nhằm rút ra một
khung lý thuyết từ những suy tư lý luận về nghiên cứu sử học và dân
tộc học của mình phục vụ cho việc nghiên cứu tính tộc người được
trình bày trong bài "Tiến tới việc hình thành một quan niệm mói về
nhóm tộc người" trong họp tuyển này. Khi tư duy của tôi tiến triển,
tôi lại càng nhận thức rõ hơn luận điểm nguyên gốc của mình về vai
trò trọng yếu của quốc gia - dân tộc trong việc hình thành nên bản
sắc, bởi lẽ tất cả các dân tộc ở châu Á, thậm chí ữên toàn thế giới (trừ
một vài ngoại lệ hy hữu), đã được đưa vào dưới quyền lực của các
nhà nước thiết lập nên những tham biến nhằm khẳng đinh các bản
sắc. Những chuyên biến trong tư duy của tôi thể hiện trong ba bài
viết gần đây hơn về tính tộc người trong hợp tuyển này, bao gồm bài
"Thế giới được đề xuất của trường học".
Mối quan tâm của tôi tới tính tộc người bắt nguồn từ truyền
thống nhân học quan tâm tới những gì được coi là "cho trước" trong
sự tồn tại của con người. Theo Clifford Geertz, tôi hiểu rằng mọi
người đều có những ràng buộc "tiền định" bắt nguồn "từ những gì
"trước" - hay chính xác hơn là "những gì được coi là cho trước" của
tồn tại xã hội, bởi lẽ văn hóa tất yếu phải gắn với những điều như vậy
(Geertz 1963: 109). Những điều cho trước đó, tôi đã lập luận, thường
được giả định là đã được xác định từ lúc ta chào đời. Những điều tiên
định lúc sinh ra luôn được thể hiện trong văn hóa của nhiều xã hội
khác nhau, bao gồm giới, địa điểm và thời gian chào đời, những đặc
tính cơ thế có thể được xác nhận như dấu vết thừa hưởng về sinh học
và dòng dõi xã hội hoặc mối liên kết gắn với tổ tiên (xem Keyes 1981).
Thế nhung nhũng tiền đề đó luôn được quan niệm theo những cách
rất đặc trung vê văn hóa.
9
Mặc dù con người được phân biệt một cách sinh học bởi tính
lưỡng hình về giới tính (trừ những ngoại lệ hy hữu), cách hiểu về
"tính nam" và "tính nữ" trong thực tế lại phụ thuộc vào cách những
tiền đề sinh học được xác định thông qua những ý nghĩa văn hóa.
Trong hai bài viết ở đây, tôi cho thấy, ở Thái Lan, noi tất cả mọi
người đều cùng theo Phật giáo Thượng tọa bộ, họ đã rút ra từ quan
điểm Phật giáo những cách hiểu rất khác nhau về ý nghĩa của việc là
đàn ông hay đàn bà.
Khác với chủ dề tính tộc người, tôi chưa tiến hành so sánh
những cách hiểu về giới của người Thái và người Việt. Tôi tin rang,
dựa trên bề dày nghiên cứu về giới cho tới nay ờ ca hai xã hội này,
một nỗ lực so sánh như vậy sẽ giúp soi sáng không chi tri thức về
những thế giói khác nhau ở Thái Lan và Việt Nam mà còn cả lý
thuyết về giới. Đơn cử một thí dụ, trong khi ở Việt Nam, bản sắc căn
cước của một người phụ nữ, ngay cả khi không lập gia đình, vân
được khẳng định dựa trên việc có một đứa con (xem Phinney 2002),
còn Thái Lan là nước có tỷ lệ phụ nữ không bao giờ kết hôn cao nhất
trong các xã hội châu Á, hầu hết không ai trong số họ có con cái (xem
Jones 1997).
Trờ lại với nền tảng dân tộc học trong các nghiên cứu của tôi, ở
Bản Nông Tủn, Jane, vợ tôi, và tôi đã sớm nhận ra rằng Phật giáo là
trung tâm của những hiểu biết văn hóa của dân làng về the giới của
họ. Tôi nhận ra rằng tôi cần phải coi nghiên cứu Phật giáo, theo cách
nó được thực hành ở Thái Lan, là tâm điểm của nỗ lực của chính
mình nhằm tìm hiểu xã hội và văn hóa không chỉ của vùng Đông Bắc
Thái Lan mà còn cả Thái Lan nói chung.
Khi viết luận án tiến sĩ tại Đại học Cornell sau khi từ Thái Lan
trở về, tôi đã ngày càng dấn sâu vào những cuộc thảo luận vớị
Thomas Kirsch' về vai trò của tôn giáo và xã hội. Tom chia sẻ với tôi
một trải nghiệm chung la đã nghiên cứu điền dã tại một làng ở Đông
Bắc Thái Lan, nhưng được đào tạo Harvard, ông hiểu sầu sắc hơn
tôi về giá trị của tư tưởng của Max Weber khi cắt nghĩa về vai trò của
tôn giáo trong việc định hình nên những hành xử xã hội. Được đào
tạo ở Cornell cũng giúp tôi quan tâm một cách nhạy bén đến việc tìm
hiểu ảnh hưởng của "cái hiện đại" khi những cộng đồng địa phương
Văn hỏa tộc người và tôn giáo ở Đông Nam Ả
10 Charles F. Keyes
gia nhập các quốc gia - dân tộc, sự mở rộng của hệ thống toàn cầu
của chủ nghĩa tư bản, và sự chuyển hóa của thông tin liên lạc thông
qua sự mở rộng truyền thông điện tử và đại chúng cũng như các hệ
thống giao thông chuyên chở. Thông qua Tom, tôi đã đi tới việc tư
duy về cái hiện đại theo cách hiểu của Weber.
Trong điều kiện tư tưởng Marxist có ảnh hưởng mạnh đến lý
thuyết khoa học xã hội ở Việt Nam, rất cần thừa nhận rằng ngay
chính Weber cũng chịu ảnh hưởng của Marx thật sâu săc. Cả hai cùng
chia sẻ nhận thức rằng các yếu tố kinh tế là căn bản đê hiêu ve xã hội.
Nhưng Weber đã kết luận rằng Marx chưa nhan mạnh thích đáng
mối quan hệ biện chứng giữa ý nghĩa văn hóa và hanh xử xã hội. Lý
thuyết phương Tây đương đại găn với Marx, được bieu hiẹn trong
công trình của Pierre Bourdieu và Michel Foucault, đã tìm thay ở
Marx một khuynh hướng tương tự như của Weber — nói mọt cách
khác, đã từng có, chí ít là ở phương Tây, một sự đong quy giưa ly
thuyết của Weber và Marx. Tôi đã thảo luận kỹ hơn ve đieu nay trong
bài viết "Weber và nhân học", có mặt trong họp tuyên nay.
Mặc dù Weber được biết đến bởi những phân tích so sánh của
ông về mối quan hệ giữa hành động kinh te và những y nghía ton
giáo, ông không thực sự hiểu hết phương thức tạo ra nhưng y nghía
đó trong thực tế. Công trình của ông có xu hướng nhan mạnh đen
những nguồn gốc thần học hoặc triết học của những ý nghĩa đó. Ở
Cornell, sau khi trở về từ chuyến điền dã đầu tiên, tôi đã có cơ hội
làm việc với Victor Tumerü, lúc đó vừa trở thành thành viên của
trường này (cho dù chỉ trong một thời giàn ngắn). Nhờ có Turner, tôi
đã được dân dắt tới chỗ hiểu sâu hơn về vai trò của nghi le, mọt đieu
trươc đó trong quá trình điền dã tôi cũng đã cảm nhận được mọt each
trực tiep và mạnh mẽ. Chính bằng cách đào sâu vào những chi tiet cụ
thê của hanh xử lễ nghi - như tôi trinh bày trong bài viet Từ tử đen
sinh: Nghi lê và ý nghĩa Phật giáo ở vùng Bắc Thái Lan" — mà ta co
the đạt được hiêu biết sâu sắc vê phương cách thông qua đó những y
nghía tôn giáo được chuyên tải thành những cách nhìn thực tiên ve
thế giói.
Nhãn quan Phật giáo chính là cội nguồn của đạo lý kinh te đặc
săc của những người thường xuyên thực hành lễ nghi đạo Phật. Như
11
tôi đã cho thấy ữong bài viết "Hành vi kinh tế và đạo lý Phật giáo ở
một làng người Thái", đạo lý kinh tế xuất phát từ Phật giáo của người
dân vùng Đông Bắc Thái Lan đã giúp họ thích nghi với một nền kinh
tế ngày càng bị định hình bởi chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Tuy nhiên,
đạo lý này không phải áp dụng cho tất cả mọi Phật tử. Trong một bài
viết không có trong hợp tuyển này (Keyes 1993), tôi đã chỉ ra sự
tương đồng và khác biệt giữa những đạo lý kinh tế khác nhau của
người Thái và người Miến Điện, kê cả khi họ cùng theo Phật giáo
Thượng tọa bộ. Về mặt này, ngay cả khi phần lớn người Việt Nam
khẳng định rằng Phật giáo là một thành tố trong di sản tôn giáo của
mình, thực ra đạo Phật có khá ít ảnh hưởng đến việc đinh hình cho
một đạo lý kinh tế của người Việtũi.
Một nhãn quan tôn giáo thường gắn với một giả định về thẩm
quyền, khi những ý nghĩa hàm chứa trong những hành xử cũng như
truyền giảng tôn giáo được còi là chân xác chi với điều kiện chứng được
cho là bắt nguồn từ những cá nhân hoặc thiết chế được chấp nhận là có
thẩm quyền. Weber đã phân biệt ba dạng thức thẩm quyền tôn giáo: (1)
truyền thống, vốn biểu hiện rất rõ trong lễ nghi; (2) duy lý, vốn gắn chặt
vói thần học và triết học; và (3) ma lực, hành vi của một cá nhân mà
nhũng người khác cho là xuất phát từ một nguồn thiêng.
Tôi đã bàn về thẩm quyền ma lực trong hai bài viết được đưa
vào họp tuyển này, bài đầu là "Thuyết thiên niên, Phật giáo Thượng
tọa bộ và xã hội Thái", trong đó tôi xem xét một loại phong trào khá
phổ biến trước kia, đặc biệt trong thời thực dân. Như tôi trình bày
quan sát của mình trong bài viết, khái niệm "thiên niên" bắt nguồn từ
quan niệm Ki-tô giáo về sự thiết lập một thời kỳ kéo dài ngàn năm
(thiên niên) thịnh trị thái bình trên trái đất. Khái niệm này trong khoa
học xã hội có nghĩa là niềm tín vào sự tồn tại sẽ đến của một trật tự xã
hội công bằng thông qua sự can thiệp của một quyền lực linh thiêng.
Những người đàn ông (và hiếm khi hơn là đàn bà), mà những người
tín theo thừa nhận rằng họ có ma lực, tức là có một quan hệ đặc biệt
với quyền lực linh thiêng, đã từng là những lãnh tụ của các phong
trào nhằm thiết lập nên một trật tự mới sánh ngang với trật tự ngàn
năm của Ki-tô. Những phong trào như vậy rốt cuộc cũng đã chứng tỏ
không thể chống chịu được những thách thức của các thẩm quyền thế
tục, thường gắn với một nhà nước, vốn nắm trong tay quyền lực vật
chất manh hơn như vũ khí vượt trội hơn. Mặc dù các phong trào
Văn hóa tộc người và tôn giáo ở Đông Nam Ả
12 Charles F. Keyes
thiên niên đã suy giảm rõ rệt cùng với kết cục của thời thực dân ở
Đông Nam Á, đôi lúc chúng vẫn phát triển, như đối với các cư dân
sống ở vùng cao trong khu vực.
Như tôi đã thảo luận trong "Ma lực: Từ đời sống xã hội đến tiểu
sử linh thiêng", quyền năng hiệu triệu không chỉ gắn với các phong
trào thiên niên. Ngược lại, như Weber đã lập luận, có thể tìm thấy
quyền năng hiệu triệu ở tất cả các xã hội trong mọi thời kỳ. Như tôi
đã viết trong bài, quyền năng này xuất phát từ nhận thức rằng
"những nhân vật cụ thể - với nhiều tên gọi khác nhau như thầy
Shaman, nhà truýền đạo Hindu, tu sĩ, nhà tiên tri, hay Đang Cứu thế
v.v. - tất cả đều được tín đồ của họ thừa nhận rằng họ có một mối
liên hệ đặc biệt gần gũi với yếu tố linh thiêng bởi vì họ đã làm cho
một số hành động của mình, trong những hoàn cảnh đặc biệt hay
trong cuộc sống hằng ngày, giống như những mô hình mà được nhìn
nhận như những dấu hiệu linh thiêng". Trong giai đoạn sau Đổi mới
ở Việt Nam, đã có sự nở rộ của các hoạt động tôn giáo xoay quanh
những cá nhân được cho là có quyền năng hiệu triệu.
Kết luận
Tôi thấy rất hãnh diện khi một số học ữò cũ và đồng nghiệp của
tôi ớ Việt Nam nhận thấy các công trình của tôi có đủ giá trị để họ bỏ
thòi gian và công sức đáng kê vào việc dịch các bài viết sang tiếng
Việt cho hợp tuyển này. Những mối quan tâm học thuật này - việc
hình thành những bản sắc tộc ngưòi trong thế giới hiện đại, kiến tạo
văn hóa của những bản sắc giới, mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội
và những-ý tưởng của Weber cũng như những ý tưởng lý thuyết có
liên quan mà tôi đã vận dụng để khám phá những chủ đề này - đã
làm tôi bận tâm trong suốt sự nghiệp của mình và cũng là những mối
quan tâm mà nhiều học giả theo đuổi kể từ những năm 1980 liên
quan đến Việt Nam. Những công trình một học giả xuất bản có thể ví
như những con thuyền nhỏ được hạ thủy ra đại dương. Những con
thuyền đó cập bến nào và điều gì sẽ xảy ra với chúng lại nằm ngoài
tầm kiểm soát của người đưa chúng ra khơi. Tôi chi có thể hy vọng
rằng một số bạn đọc ở Việt Nam bắt gặp một hoặc một vài con
thuyền này sẽ giúp những con thuyền của chính họ ra khơi xa.
GS. Charles F. Keyes
TS. Trương Huyền Chi dịch
Văn hóa tộc người và tôn giáo ở Đông Nam Á 13
Tài liệu tham khảo
Geertz, Clifford. 1963. "The Integrátive Revolution: Primordial
Sentiments and Civil Politics in the New States" [Cuộc cách mạng
thống nhất: Những tình cảm tiên định và chính trị dân sự trong
những nhà nước mới] trong Old Societies and New States. Clifford
Geertz, chủ biên. New York: Free Press. Tr.105-157.
Jones, Gavin w. 1997. "The Demise of Universal Marriage in East and
South-East Asia" [Sự suy biến của hôn nhân phổ quát ở Đông và
Đông Nam Á] trong The Continuing Demographic Transition. Gavin
w. Jones, chủ biên. Oxford: Clarendon Press; New York: Oxford
University Press. Tr.51-79.
Keyes, Charles F. 1981. "The Dialectics of Ethnic Change" [Biện chứng
của thay đổi tộc người] trong Ethnic Change. Charles F. Keyes, chủ
biên. Seattle: University of Washington Press. Tr.4-30.
_____, 1993. "Buddhist Economics and Buddhist Fundamentalism in
Burma and Thailand" [Kinh tế học Phật giáo và phong trào Phật
giáo căn bản ở Miến Điện và Thái Lan] trong Remaking the World:
Fundamentalist Impact. Martin Marty và Scott Appleby, chủ biên.
Chicago: University of Chicago Press. Tr.367-409.
Lê Hồng Lý. 2007. "Praying for Profit: The Cult of the Lady of the
Treasury (Bà Chúa Kho)" [Câu tài cầu lộc: Tín ngưỡng Bà Chúa
Kho], Journal of Southeast Asian Studies, 38.3: 493-514.
Lương Văn Hy. 1993. "Economic Reform and the Intensification of
Rituals in Two North Vietnamese Villages, 1980-1990" [Cải cách
kinh tế và tăng cường nghi lễ hai làng miền Bắc Việt Nam,
1980-1990] trong The Challenge of Reform in Indochina. Borje
Ljunggren, chủ biên. Cambridge: Harvard Institute of
International Development. Tr.259-292.
Malarney, Shaun Kingsley. 2002. Culture, Ritual and Revolution in
Vietnam [Văn hóa, nghi lễ và cách mạng ở Việt Nam]. Honolulu:
University of Hawaii Press.
Phinney, Harriet. 2002. "Asking for the Essential Child:
Revolutionary Transformations in Reproductive Space in
Northern Viet Nam" [Câu tự: Những chuyển biến cách mạng
trong không gian sinh sản ở miền Bắc Việt Nam]. Luận án Tiến
sĩ, University of Washington.
14___________________________________________ Charles F. Keyes
' A. Thom as K irsch (1930-1999) lấy bằng Tiến sĩ Nhân học ở H arvard và dành phần
lớn sự nghiệp của m ình giảng dạy N hân học ở C om ell. Tom và tôi cùng tiến hành
nghiên cứu điền dã tại các làng ở Đ ông Bắc Thái Lan vào năm 1963.
“ V ictor T u m er (1920-1983), đại diện trường phái Nhân học Biểu tượng, nổi tiếng với
các công trình nghiên CÚ11 biểu tượng, nghi lê, hành hương.
Jil Về đạo lý kinh tế xu ất p hát từ tôn giáo Việt N am , xem Lương Văn H y (1993), Lê
H ồng Lý (2007), và M alam ey (2002).
TH UYẾT THIÊN NIÊN,
PHẬT GIÁO THƯỢNG TỌA BỘ
VÀ XÃ HỘI THÁI
Những vấn đề lý thuyết
Trong bài viết này, tôi quan tâm tới việc giải thích một loại hiện
tượng tôn giáo mà tôi gọi là thuyết thiên niên*. Trước hết, tôi sẽ vạch
ra những đặc trưng tôn giáo của hiện tượng này, bởi phong trào thiên
niên (còn được biết dưới nhiều tên gọi khác nhau) thường được coi là
sự phản ứng của trải nghiệm khủng hoảng tâm lý, kinh tế hay chính
trị. Tôi không coi tôn giáo chỉ là một hệ thống phản ứng; mà tôi đồng
ý với Clifford Geertz (1966) rằng đó là một "hệ thống văn hóa" vừa là
"mô hình của", vừa là "mô hình cho" thực tế. Tóm lại, tôi coi tôn giáo
vừa là một tập họp biểu tượng khiến cho trải nghiệm của con người
thực sự có ý nghĩa, vừa là một tập hợp biểu tượng cung cấp nền tảng
co bản cho hành động của con người.
Chúng ta cần bắt đầu đinh nghĩa phong trào thiên niên, nhu một
hiện tượng tôn giáo, bằng cách xác định những đức tín thiết yếu gắn
với nó. Khái quát hóa từ ý nghĩa có nguồn gốc Ki-tô giáo (một trật tự
mới trên Trái đất sẽ được thiết lập bởi Chúa Ki-tô), thiên niên là một
trật tự mói trên trái đất sẽ được thiết lập bởi một thế lực siêu nhiên,
tức là lực nằm trong lĩnh vực tâm linh của con người. Thuyết thiên
niên khác biệt vói các hệ thống tín ngưỡng khác ở chỗ thiên niên
được tín rằng sẽ xảy ra, và nó sẽ diễn ra trên thế giới này chứ không
phải ở những bình diện tồn tại khác. Một hệ quả tự nhiên của đức tín
về sự thiết lập trật tự mói sẽ xảy ra là đức tín về trật tự hiện thòi sẽ bị
xóa bỏ; nói cách khác, trật tự hiện thời bị giảm giá trị một cách căn
bản. Cuối cùng, thuyết thiên niên tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa
người được "chọn" với người bị "đày", giữa những người sẽ sống sót
sau sự hủy diệt trật tự cũ và có thể thụ hưởng thành quả của thiên
niên vói những người sẽ chết trong cuộc hủy diệt.