Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Văn hóa tộc người Nng.doc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Văn hóa tộc người Nùng
Chương 1
Những vấn đề chung về dân tộc Nùng ở Việt Nam
1.1. Khái niệm chung
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử, dùng chung
một tiếng nói làm tiếng nói chính thức mang tình hành chính, có một lãnh thổ bất
khả xâm phạm, cùng chung một vận mệnh lịch sử, có chung một sinh hoạt kinh tế
hay một thị trường, có chung một tính cách dân tộc thể hiện trong lối sống và văn
hóa, đặc biệt là phải có chung một nhà nước.
Dân tộc hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị xã hội, được chỉ đạo
bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, có một tên gọi, một ngôn
ngữ hành chính, một sinh hoạt kinh tế nói chung, với những biểu tượng văn hóa
chung tạo nên một tính cách dân tộc1
.
Dân tộc thường được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất
của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên
của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan
xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với
việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của
quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, tình cảm...
1
GS. Đặng Nghiêm Vạn (2009), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam Đa tộc người, Nxb ĐHQG TP.HCM, tr. 76
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
1
Văn hóa tộc người Nùng
Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hoá dân
tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bó với nền văn hoá của
cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Tộc người hay dân tộc là một cộng đồng mang tính tộc người có chung một tên
gọi, một ngôn ngữ (trừ trường hợp cá biệt) được thể hiện liên kết với nhau bằng
những giá trị sinh hoạt văn hóa, tạo thành một tính cách tộc người, có chung một ý
thức tự giác tộc người, tức là có chung một khát vọng được cùng chung sống, cóc
hung một số phận lịch sử thể hiện ở những kí ức lịch sử (truyền thuyết, lịch sử
huyền thoại kiêng cử). Tộc người là một cộng đồng mang tính tộc người, không
nhất thiết phải cư trú trên cùng một lãnh thổ, có chung nhà nước, dưới sự chỉ đạo
của một chính phủ với những đạo luật chung1
.
Nhóm địa phương là một bộ phận của một tộc người nhất định, có mối quan hệ
về lịch sử, ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa, có ý thức tự giác thuộc về tộc người đó.
Nhóm địa phương chỉ được tạo thành khi tự bản thân có một tên gọi riêng phổ biến
trong vùng.
Cộng đồng dân tộc được hình thành từ một tộc người nhất định, đa phần được
hình thành từ một hay hai, ba dân tộc nhười có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
cao hơn, ở những địa thế có khả năng phát triển, bao gồm thêm những tộc người ít
phát triển, ít dân số ở những miền ngoại vi. Cộng đồng dân tộc còn là sự liên minh
giữa các bộ lạc, tộc người với nhau, được hình thành trong một quốc gia xác định.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc. Dân tộc Kinh
chiếm 87% dân số; 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên địa
bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày,
Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân
dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn
1
GS. Đặng Nghiêm Vạn (2009), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam Đa tộc người, Nxb ĐHQG TP.HCM, tr. 77
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
2
Văn hóa tộc người Nùng
người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu,
Brâu)
1.2. Tên gọi, nguồn gốc của dân tộc Nùng
1.2.1. Nguồn gốc của dân tộc Nùng
Dân tộc Việt Nam là một danh từ chung để chỉ các dân tộc sống trên lãnh thổ
Việt Nam.
Một số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ Trung
Hoa, hoặc Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa.
Nhưng căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự hình thành các dân
tộc Việt Nam trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nói
rằng tất cả các dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mã
Lai. Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:
Theo các nhà nhân chủng học, nếu phân chia theo hình dáng thì loài người được
chia thành bốn đại chủng chính, đó là: Đại chủng Âu (Caucasoid), Đại chủng Phi
(Negroid), Đại chủng Á (Mongoloid), Đại chủng Úc (Australoid, hay còn gọi là Đại
chủng Phương Nam). Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây), có
một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông nam,
tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á
kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ
Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien). Người Cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn
gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ Mã Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướng
bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía nam tới các đảo của
Indonesia, về phía đông tới Philippines.
Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây). Tại
khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông
Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
3
Văn hóa tộc người Nùng
xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành một
chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique). Do hai lần hòa nhập với
Đại chủng Á mà Chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại chủng Á
hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc. Cũng chính vì thế Chủng Nam Á
được liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á.
Thời kỳ sau đó, Chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ
thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Thực ra không có đến một trăm
(bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm:
Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt,
Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây,
Trung Quốc và Bắc bộ Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho
đến Bắc bộ (Việt Nam). Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, ViệtMường, Tày-Thái, Mèo-Dao,... Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình
thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Trong khi đó, phía nam Việt
Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo
thời gian họ chuyển biến thành Chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc
thuộc nhóm Chàm.
Việc xác định về mặt địa lý có thể hình dung như sau:
Địa bàn cư trú của người Bách Việt là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử,
đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam.
Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo là một tam giác mà đáy là sông
Dương Tử, đỉnh là đồng bằng sông Mê kông, Việt Nam.
Đại bàn cư chú của hậu duệ người Cổ Mã Lai, mà ngày nay là phần lớn các cư
dân Đông Nam Á là một vùng rất rộng kéo dài từ Ấn Độ đến Philippines theo chiều
tây đông, và từ sông Dương Tử xuống đến Indonesia theo chiều bắc nam.
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
4
Văn hóa tộc người Nùng
Dân tộc Nùng là một cộng đồng các dân tộc nói ngôn ngữ Thái là dân tộc lớn ở
châu Á, có mặt ở hầu hết các nước Đông Nam Á, và có mối quan hệ với dân tộc
Choang ở Quảng Tây và Vân Nam - Trung Quốc. Dựa vào sự so sánh đối chiếu các
tộc người cổ đại với tộc người hiện đại ngày nay các nhà nghiên cứu dự đoán về sự
tách nhóm tộc người ngôn ngữ Tày – Thái. Trên cơ sở những nhóm riêng biệt này
mà dần hình thành các nhóm tộc người nói ngôn ngữ Tày –Thái ngày nay. Dân tộc
Nùng là một nhóm tộc người được tách ra trong quá trình phát triển của lịch sử, xã
hội, địa lí…
Bản sơ đồ:
Chăm, Êđê, Khơme, Việt, Mường Tày, Thái, Mèo, Dao…
GiaRai… Xơ Đăng… Thổ, Chứt… Nùng…
1.2.2. Tên gọi dân tộc Nùng
Mỗi dân tộc đều có riêng một tên khác nhau, sự hình thành và cách gọi tên dân
tộc mình có nhiều cách lí giải khác nhau, thường thì hay dựa vào những truyền
thuyết, câu chuyện về sự ra đời của dân tộc mình, tổ tiên mình mà dựa vào đó có
thể biết tên dân tộc mình, nguồn gốc và lịch sử dân tộc. Dân tộc Nùng cũng như
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
5
Cổ Mã Lai
Nam Đảo Nam Á
Nhóm
Chàm
Nhóm
Môn -
Khơme
Nhóm
Việt –
Mường
Nhóm
Tày -
Thái
Nhóm
Mèo -
Dao