Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ địa phương hương sơn – hà tĩnh.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
LƯƠNG THỊ GIANG
Từ địa phương Hương Sơn – Hà Tĩnh
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt của chúng ta là một ngôn ngữ vừa đa dạng, phong phú vừa thống
nhất. Ngôn ngữ đó đặc biệt quan trọng trong truyền đạt truyền thống văn hóa và
kinh nghiệm sản xuất từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Chuẩn hóa ngôn ngữ là một yêu cầu quan trọng đối với tiếng Việt. Tuy nhiên
để hiểu sâu sắc tiếng Việt và dùng nó một cách thống nhất không thể không nghiên
cứu về lớp từ địa phương.
Hương Sơn là một huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Một huyện trung du miền núi
có cửa khẩu Cầu Treo nơi buôn bán sầm uất và là nơi giao lưu với đất nước Lào anh
em. Trải qua một quá trình tiếp xúc văn hóa lâu dài đã làm cho ngôn ngữ nơi đây
trở nên đa dạng và phong phú. Chính điều đó cũng đã tạo nên cho vùng đất này có
những điểm rất đặc trưng của một nền văn hóa mang tính địa phương, đặc biệt thể
hiện ở ngôn ngữ giao tiếp. Ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày thể hiện trong từ địa
phương đã tạo nên nét riêng của con người nơi đây. Bên cạnh đó, từ địa phương còn
ăn sâu vào tâm thức và đời sống tinh thần của người dân nơi đây mà không vùng
nào có được.
Những năm trở lại đây, vấn đề nghiên cứu về ngôn ngữ mà đặc biệt là
phương ngữ nói chung và từ địa phương nói riêng được nhiều nhà ngôn ngữ quan
3
tâm và đã có những công trình nghiên cứu có giá trị, nhưng các công trình đó mới
chỉ nghiên cứu các vùng phương ngữ lớn như Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Tuy
nhiên vấn đề nghiên cứu về lớp từ địa phương của một vùng cụ thể là Hương SơnHà Tĩnh vẫn chưa được nghiên cứu.
Xuất phát từ sự say mê của bản thân về tìm hiểu ngôn ngữ, đồng thời là một
người con sinh ra trên mảnh đất Hương Sơn tươi đẹp, tôi muốn hiểu rõ hơn về giá
trị từ địa phương , bản sắc văn hóa và ngôn ngữ trong lời ăn tiếng nói của người dân
quê hương mình. Chính vì những lí do trên mà chúng tôi chọn đề tài Từ địa phương
Hương Sơn – Hà Tĩnh làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Từ địa phương Hương Sơn- Hà Tĩnh là một bộ phận nằm trong từ địa
phương Nghệ - Tĩnh nói riêng và phương ngữ Nghệ - Tĩnh nói chung. Cho đến nay
nghiên cứu về từ địa phương Nghệ -Tĩnh và phương ngữ Nghệ- Tĩnh phải kể đến
các tác giả như: Hoàng Trọng Canh, Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Thị Châu, Nguyễn
Văn Tu…
Năm 1978, tác giả Nguyễn Văn Tu trong cuốn “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện
đại”, trong “Chương XI Từ địa phương và vốn từ toàn dân” cũng đã chỉ ra rằng:
Mặc dù tiếng Việt về cơ bản thống nhất nhưng căn cứ vào sự khác nhau về than h
điệu, từ vựng, có thể chia thành 4 nhóm. Với sự phân chia này phương ngữ Nghệ
Tĩnh nằm trong tiếng phương ngữ Trung bộ [20, tr.233].
Năm 1999, tác giả Nguyễn Nhã Bản (chủ biên) cuốn“Từ điển tiếng địa
phương Nghệ - Tĩnh”. Trong cuốn sách đã tập hợp, thống kê và giải thích về mặt
ngữ nghĩa của phần lớn các từ địa phương Nghệ- Tĩnh. Qua đó cung cấp cho người
đọc một vốn từ địa phương phong phú được sử dụng rất phổ biến trong giao tiếp
hàng ngày của người Nghệ - Tĩnh và còn nêu, giải thích một số khẩu ngữ địa
phương, đưa ra các ví dụ về từ địa phương trong ca dao, dân ca [1].
Năm 2002, tác giả Hoàng Thị Châu trong cuốn “Phương ngữ học tiếng Việt”
cũng đã đề cập một số vấn đề liên qua đến phương ngữ Nghệ Tĩnh ở khía cạnh như
về ngữ âm và hệ thống thanh điệu. Tác giả đã đi vào phân tích khá chi tiết và cụ thể,
4
qua đó phần nào cho ta thấy được sự khác biệt của yếu tố ngữ âm ở đây so với
nhiều phương ngữ ở các vùng miền khác [8].
Năm 2002, trên “Tạp chí ngôn ngữ”, tác giả Hoàng Trọng Canh với bài viết
“Sự khác biệt về ngữ nghĩa một số kiểu từ địa phương Nghệ Tĩnh so với từ toàn
dân”. Trong bài viết này tác giả đã phân biệt rất rõ về ngữ nghĩa và đưa ra bảng so
sánh về sự khác nhau giữa từ địa phương Nghệ Tĩnh so với ngôn ngữ toàn dân
thông qua các yếu tố ngữ âm. Tác giả còn chỉ ra nguyên nhân của sự khác nhau đó
[23, tr51 -58].
Năm 2009, tác giả Hoàng Trọng Canh trong cuốn “Từ địa phương Nghệ
Tĩnh về một khía cạnh ngôn ngữ- văn hóa”. Tác giả đã nghiên cứu về từ địa phương
Nghệ Tĩnh với một công trình gồm 4 chương. Tác giả đã đi từ tiền đề lí luận, chỉ rõ
đặc điểm của các lớp từ địa phương và dấu ấn văn hóa của người Nghệ Tĩnh qua
cách gọi tên một số nhóm từ và vai trò từ địa phương trong hoạt động sáng tạo thơ
ca dân gian, giúp người đọc có cái nhìn khái quát về từ địa phương Nghệ Tĩnh [3].
Ngoài ra còn có một số luận văn nghiên cứu về từ địa phương và phương
ngữ như: đề tài “ Đặc điểm phương ngữ Quảng Trị trong ca dao, vè”(2008), tác giả
Lê Thị Thanh Nhàn, đề tài “Khảo sát từ địa phương Thanh Chương - Nghệ
An”(2009), tác giả Phạm Thị Thúy Hằng; ….
Nhìn chung, các tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu về từ địa phương vùng với
mức độ nông sâu khác nhau. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu về “Từ địa phương Hương Sơn- Hà Tĩnh”. Dựa trên cơ sở tiếp thu những ý kiến
đánh giá nghiên cứu, đặc biệt là sự nỗ lực tìm hiểu của bản thân. Chúng tôi mong
muốn đóng góp thêm một phần nhỏ của mình để hoàn thiện việc nghiên cứu và tìm
hiểu đề tài Từ địa phương Hương Sơn – Hà Tĩnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Từ địa phương Hương Sơn- Hà Tĩnh.
- Phạm vi đề tài: Đề tài khảo sát từ địa phương Hương Sơn- Hà Tĩnh trong
giao tiếp của người dân so sánh với ngôn ngữ toàn dân.
4. Phương pháp nghiên cứu
5
- Khảo sát thực tế tại địa phương để thu thập tư liệu.
- Phương pháp thống kê, phân loại, so sánh đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài này ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần
Nội dung chính gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Khảo sát từ địa phương huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Chương 3: Dấu ấn văn hóa của người dân Hương Sơn - Hà Tĩnh qua cách dùng một
số nhóm từ địa phương
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề lí luận chung liên quan đến đề tài
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm Từ
Khái niệm về Từ, từ lâu các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều khái niệm về từ
như sau:
Tác giả Hồ Lê trong cuốn “Vấn đề cấu tạo của từ tiếng Việt hiện đại” đã đưa
ra định nghĩa về từ như sau: Từ là đơn vị ngôn ngữ có chức năng định danh phi liên
kết hiện thực hoặc chức năng mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có
tính vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về ý nghĩa.[13, tr.104]
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” đã đưa ra
khái niệm về từ: Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, có
một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức hoặc một kiểu cấu tạ o nhất
định, tuân theo những đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ vựng và nhỏ
nhất để tạo câu. [6, tr.28]
Theo tác giả Đái Xuân Ninh trong cuốn “ Hoạt động của từ tiếng Việt ” đã
đưa ra khái niệm về từ: Từ là đơn vị cơ bản của cấu trúc ngôn ngữ ở hình vị và cụm
từ. Nó được cấu tạo bằng một hay nhiều đơn vị ở hàng ngay sau nó tức là hình vị và
lập thành một khối hoàn chỉnh. [15, tr.24 ]
6
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “ Từ vựng học tiếng Việt” tác
giả đã đưa ra khái niệm từ tiếng Việt: Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất
có ý nghĩa được dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết
liền. [11, tr.69 ]
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” đã đưa ra khái
niệm về từ như sau: Từ là đơn vị cơ bản, là đơn vị cốt lõi để tạo nên những đơn vị
lớn hơn như cụm từ, câu, văn bản. [14, tr.17]
Tác giả Mai Ngọc Chừ trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, đã
đưa ra khái niệm về từ: Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền
vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do
trong lời nói để tạo câu. [9, tr.142 ]
Ở đây chúng tôi đồng ý theo khái niệm từ của tác giả Đỗ Hữu Châu đưa ra.
1.1.2 Cách phân loại từ
Theo các nhà nghiên cứu từ vựng học thì có nhiều tiêu chí phân loại từ: dựa
vào tiêu chí nguồn gốc, dựa vào tiêu chí cách dùng, dựa vào tiêu chí từ loại và dựa
vào tiêu chí cấu tạo từ. Ở đây chúng tôi dẫn ra cách phân loại từ dựa theo tiêu chí từ
loại và tiêu chí cấu tạo từ. Vì hai tiêu chí này có liên quan đến phần khảo sát từ địa
phương.
1.1.2.1 Dựa vào tiêu chí từ loại
Tác giả Đái Xuân Ninh trong cuốn “ Hoạt động của từ tiếng Việt ” đã đưa ra
cách phân chia những loại từ cơ bản:
+ Phạm trù A (từ chỉ tên): danh từ (bao gồm danh từ riêng và danh từ chung).
+ Phạm trù B (từ chỉ hoạt động): động từ (bao gồm động từ được xác định và động
từ không được xác định).
+ Phạm trù C (từ chỉ tính chất): tính từ (bao gồm tính từ được xác định và tính từ
không được xác định). [15]
Tác giả Lê Biên trong cuốn “Từ loại tiếng Việt hiện đại” đã đưa ra khái niệm
về từ loại và tiêu chí phân loại từ loại. Tác giả đã tổng hợp và chỉ ra các từ loại cơ
bản, đó là: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ.
7
Tác giả đã trình bày rõ về nghĩa khái quát, nghĩa ngữ pháp và các tiểu loại của từng
loại từ. [2]
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” đã đưa ra những
từ loại trong tiếng Việt căn cứ vào tiêu chuẩn ý nghĩa khái quát và khả năng kết
hợp. Từ trước đến nay người ta thường chia ra thực từ và hư từ. Thực từ bao gồm:
danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ. Hư từ bao gồm: phụ từ, kết từ, tình thái từ,
trợ từ. [14, tr.44]
Tác giả Mai Ngọc Chừ trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” đã
đưa ra sự phân định từ loại tiếng Việt. Từ loại tiếng Việt được chia làm hai loại là:
Thực từ và Hư từ. Thực từ bao gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ. Hư từ bao
gồm: đại từ, phụ từ, kết từ, trợ từ, tình thái từ, thán từ. [9, tr.268]
1.1.2.2 Dựa vào tiêu chí cấu tạo từ
Về cách phân loại từ bên cạnh phân loại theo từ loại thì các nhà nghiên
cứu còn đưa ra một cách phân loại khác đó là dựa vào tiêu chí cấu tạo từ:
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” đã đưa ra
cách phân chia từ tiếng Việt về mặt cấu tạo. Tác giả chỉ ra từ tiếng Việt có cấu tạo
gồm từ đơn và từ phức. Từ đơn là những từ một hình vị, về mặt nghĩa chúng không
lập thành những hệ thống có một kiểu ngữ nghĩa chung. Từ phức có hai loại là từ
láy và từ ghép. Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương
thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết. Từ ghép được sản sinh do sự kết
hợp hai hoặc một số hình vị (hay đơn vị cấu tạo) tách biệt riêng rẽ độc lập với nhau.
[6]
Nhiều tác giả trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” đã chỉ ra trong tiếng Việt
cấu tạo của từ có thể được xét ở các mặt sau đây:
- Số lượng tiếng (để phân biệt từ một tiếng với từ nhiều tiếng mà chủ yếu là từ hai
tiếng).
- Phương thức cấu tạo( để chủ yếu phân biệt trong từ hai tiếng và từ nhiều tiếng
những yếu tố và quan hệ giữa các yếu tố).[16, tr.49]