Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
430
Kích thước
131.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
734

Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ HỒNG VĂN

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN

TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN

TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự Và Tố tụng hình sự

Định hƣớng ứng dụng

Mã ngành: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Trần Thị Kim Oanh

Học viên: Lê Hồng Văn

Lớp: Cao Học Luật, Phú Yên Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh khách quan quá trình nghiên cứu.

Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và Hiệu trường Đại học

Luật TP Hồ Chí Minh về Luận văn Thạc sĩ này.

Tác giả

Lê Hồng Văn

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tác giả Luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất

đến TS. Trần Thị Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình

hoàn thành luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại học Luật TP Hồ Chí

Minh, cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt những kiến thức xã hội và

chuyên môn vô cùng quý giá cả về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức hữu ích

đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện công việc chuyên môn

ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn.

Xin cảm ơn tới Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã giúp đỡ và tạo mọi

điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn!

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ

BLHS năm 2015 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

BLTTHS năm 2003 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003

BLTTHS năm 2015 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

KSV Kiểm sát viên

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƢƠNG 1. XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ

SƠ THẨM..................................................................................................................7

1.1. Quy định của pháp luật về xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình

sự sơ thẩm..............................................................................................................7

1.2. Thực tiễn xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ........11

1.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................11

1.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................12

1.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa

hình sự sơ thẩm ...................................................................................................19

Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................23

CHƢƠNG 2. TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA XÉT

XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................................................................24

2.1. Quy định của pháp luật về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa

hình sự sơ thẩm ...................................................................................................24

2.2. Thực tiễn tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .27

2.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................27

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................29

2.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên

tòa hình sự sơ thẩm.............................................................................................36

Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................42

KẾT LUẬN..............................................................................................................43

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh

giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng quyết định

trong giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp

của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngay sau

khi Nghị quyết số 08/NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp trong thời gian tới” được quán triệt, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử

với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của

Bộ luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại

phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý

kiến của cả Kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên

tòa đã thể hiện được tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người

tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm, cùng tranh luận xác

định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận luật sư,

bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng xét xử xem

xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ đã được Kiểm sát viên phân

tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo trạng, quan điểm của người bào chữa và những

người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng.

Hoạt động xét xử tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng quan trọng trong giai

đoạn tố tụng của một vụ án hình sự, trong đó vai trò tranh tụng của Kiểm sát viên là

yếu tố quyết định, bởi lẽ Tòa án chỉ quyết định việc xét xử trên cơ sở Cáo trạng truy

tố và hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang

1

. Không một cơ quan, tổ chức nào có thể

thay thế Viện kiểm sát nhân dân trong việc truy tố người phạm tội ra tòa. Viện kiểm

sát nhân dân là cơ quan duy nhất truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và

thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Việc xét xử có đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật hay không phụ thuộc vào công tác thực hành quyền công tố của VKSND.

Kết quả tranh tụng không chỉ là sự đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng của các giai

đoạn điều tra, truy tố, mà đây còn yêu cầu cấp thiết trong việc đảm bảo tính công

bằng, dân chủ giữa người tham gia tố tụng với vai trò thực hành quyền công tố Nhà

nước của Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng

xét xử ra bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác

1 Giới hạn của việc xét xử theo Điều 298 BLTTHS 2015

2

định vai trò quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết

của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị

quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010… đều xác

định tranh tụng trong xét xử là một trong những nội dung trọng tâm và là khâu đột

phá của tiến trình cải cách tư pháp.

Thực hiện Chỉ thị số 09/CT-VKSTC về “Nâng cao chất lượng tranh tụng của

Kiểm sát viên tại phiên tòa”, xem tranh tụng là trọng tâm, Kiểm sát viên cơ bản đã

thể hiện rõ vai trò, vị trí pháp lý, là người đại diện Viện kiểm sát nhân dân thay mặt

Nhà nước làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Với tinh thần “tranh

tụng dân chủ” như Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW đã đề ra, các

Kiểm sát viên đã chú trọng việc kiểm tra, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và lập hồ sơ

kiểm sát xét xử án hình sự theo đúng Quyết định số 07/VKSTC-V3 của Viện kiểm

sát nhân dân tối cao. Qua các phiên tòa cho thấy kỹ năng xét hỏi, tranh luận của

Kiểm sát viên được nâng lên, thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự; chủ động tham gia xét hỏi, làm rõ những chứng cứ để chứng minh tội phạm, làm

rõ hành vi phạm tội của bị cáo, bảo vệ cáo trạng, bảo đảm việc truy tố và xét xử của

Tòa án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm và người

phạm tội. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những phiên tòa KSV chưa nắm vững các

quy định của Luật, các văn bản dưới luật liên quan; không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ

án; việc chuẩn bị đề cương xét hỏi sơ sài, chưa chủ động tham gia xét hỏi; phương

pháp, nội dung tranh luận một số Kiểm sát viên còn chung chung, chưa có tính

thuyết phục; chưa sử dụng mâu thuẫn trong lời bào chữa của bị cáo, luật sư để tranh

luận. Phong cách, thái độ khi tranh luận có KSV còn thiếu bình tĩnh…

Yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh

tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải

cách tư pháp, trong đó Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” có đoạn

nêu: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh

tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng

khác…Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại

phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát

viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người

có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức

3

thuyết phục và trong thời hạn quy định”2

. Tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn

mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,

trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo

đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các

phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”3

. Đặc biệt khoản

5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

được bảo đảm, coi đây là nguyên tắc hiến định then chốt của hoạt động xét xử. Với

yêu cầu đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung “Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm” vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

(Điều 26). Đây là tư tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây

dựng và đã được cụ thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng.

Vì xét xử được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ

tục xét xử công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,

góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

Hiện thực hóa các quy định về tranh tụng của BLTTHS 2015 vào thực tiễn

công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đề cao vai trò chủ

động, tích cực của Kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm làm rõ chứng cứ, chứng minh

về chủ thể và hành vi phạm tội, nhằm làm rõ có hay không có sự việc phạm tội,

tránh làm oan người vô tội, cũng như bỏ lọt tội phạm. Tranh tụng giúp làm sáng tỏ

vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, nghiêm

minh, bảo vệ công lý. Tại Chỉ thị số 09/CT-VKS ngày 06/04/2016 của Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xác định: “ Kiểm sát viên phải thường xuyên

nghiên cứu, nắm vững các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự,

các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là các quy định mới của

luật, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức xã hội ..vv..để chủ động

tranh tụng tại phiên tòa. Việc xét hỏi, luận tội, tranh luận ở phiên tòa thực hiện

đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của Ngành”

4

.

2 BCT, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp

trong thời gian tới”

3 BCT, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020”

4 VKSNDTC, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 về Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng

tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

4

Để đảm bảo vai trò của Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự sơ thẩm, đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, từ những vướng mắc thực

tiễn nói trên, học viên chọn đề tài “Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét

xử sơ thẩm theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy đã có nhiều công trình nghiên

cứu liên quan đến việc tranh tụng của Kiểm sát viên, điển hình như: bài viết “Thực

trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự

theo tinh thần cải cách tư pháp” tác giả Trần Duy Bình, đã phân tích thực trạng

tranh tụng tại phiên tòa hình sự của nhiều chủ thể như: Kiểm sát viên, người bào

chữa, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 nên chỉ có giá trị tham

thảo; Đề tài khoa học “Chuyên đề tranh luận và những giải pháp nâng cao chất

lượng tranh luận của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đã phân tích rất cụ thể về số liệu thực

tiễn tranh luận của Kiểm sát viên trong xét xử án hình sự giai đoạn 2011-2013, qua

đó đề ra nhiều giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời

gian đến; bài viết “Kinh nghiệm tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tòa

hình sự” của tác giả Lương Thị Thúy Dung đã đưa ra nhiều tình huống thực tiễn và

đề ra nhiều giải pháp rất cụ thể giúp nâng cao kỹ năng tranh luận, đối đáp của Kiểm

sát viên tại phiên tòa hình sự …

Ngoài ra, còn có một số đề tài như: Luận văn Tiến sĩ “Bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư

pháp” của tác giả Hoàng Văn Thành; Luận văn thạc sỹ “Thực tiễn thực hiện nguyên

tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” của tác giả Phan Hùng, đã phân tích rất cụ

thể về nguyên tắc trong tranh tụng trong xét xử; Luận văn thạc sỹ “Xét hỏi của

Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả

Lê Thị Thu Hải đã phân tích rất có trọng tâm về trình tự xét hỏi, nội dung xét hỏi

của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Các công trình nghiên cứu này nhìn nhận việc tranh tụng của Kiểm sát viên

tại phiên tòa hình sự với nhiều góc độ khác nhau, có giá trị thực tiễn nhất định trong

việc đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tranh tụng. Tuy nhiên, phần nhiều các

công trình nghiên cứu này rơi vào các thời điểm của Bộ luật tố tụng hình sự năm

2003, so với Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nên giá trị

5

ứng dụng đến thời điểm hiện nay không cao. Đồng thời chưa có đề tài nào nghiên

cứu trọng tâm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự dưới góc

độ xét hỏi và tranh luận theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Để từ đó có

cách nhìn trực diện qua việc thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tranh tụng

của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đánh giá những mặt đạt được cũng như những tồn

tại, hạn chế từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh

tụng của Kiểm sát viên trong thời gian đến…

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:

Mục đích: nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn

bản hướng dẫn về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ

án hình sự, đánh giá thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên cũng như bất cập trong

việc thực hiện các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn

thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng cũng như những giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nhiệm vụ: phân tích các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam và các

văn bản hướng dẫn về xét hỏi, tranh luận của KSV tại phiên tòa hình sự; nghiên

cứu, đánh giá thực trạng xét hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên trong thời gian qua để

chỉ ra những tồn tại, hạn chế, xác định nguyên nhân dẫn đến thực trạng để đề xuất,

kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ

thẩm là đề tài rất rộng nên luận văn chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu hoạt động xét

hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của

Luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản hướng dẫn. Đánh giá thực trạng xét

hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn một số

tỉnh như: Phú Yên, Đắk Lắk, Lâm Đồng để kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện

và nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.

- Phạm vi nghiên cứu: tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tế, thu thập

số liệu, tài liệu thực tiễn xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình

sự sơ thẩm từ năm 2017 đến 2020.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật để

phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; các quan điểm của

6

Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp; các văn bản dưới luật. Ngoài ra, còn sử

dụng các phương pháp như tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, lịch sử.

6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả

nghiên cứu

Dự kiến kết quả nghiên cứu: hoàn thiện nội dung Điều 307, Điều 320, Điều

321 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 9, Điều 24, Điều 26 Quy chế Công tác

thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết

định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

tối cao), từ đó nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ

thẩm hình sự.

Địa chỉ ứng dụng: Luận văn nêu những vấn đề lý luận chung về xét hỏi, tranh

luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở tiến

hành khảo sát thực tiễn tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, qua đó đánh giá những ưu, nhược điểm, những

khó khăn, vướng mắc, bất cập từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện

các quy định của pháp luật, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của Kiểm sát viên trong

công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Là tài liệu quan

trọng giúp cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân vận dụng

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng như đội ngũ Thẩm phán khi thực hiện nhiệm

vụ xét xử tại Tòa án. Đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở

đào tạo, bồi dưỡng, nhất là các cơ sở bồi dưỡng chức danh tư pháp.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn

gồm có 2 chương với cơ cấu như sau:

Chƣơng 1. Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Chƣơng 2. Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

7

CHƢƠNG 1

XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

1.1. Quy định của pháp luật về xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa

hình sự sơ thẩm

“Xét hỏi” có nghĩa là: [nhà chức trách] hỏi kĩ để phát hiện hành vi phạm pháp

hoặc tìm hiểu sự thật về một vụ án5

. Từ cách giải thích trên cho thấy “xét hỏi” là

việc làm của chủ thể có thẩm quyền và việc hỏi là để làm rõ nội dung về sự thật của

vụ án.

Xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình xét xử một vụ án hình sự,

trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa,.. phải trực tiếp xét hỏi và

nghe ý kiến của các bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người

có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,…để xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một

cách khách quan, toàn diện. Có thể nói, phần xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung

tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật

của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, được xem là cách thức kiểm

tra kết quả của cơ quan điều tra, xác định lại một lần nữa về sự thật của vụ án hình

sự, có hay không có sự việc phạm tội và tội phạm. Để thực hiện điều này, Hội đồng

xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dân), Kiểm sát viên, Người bào chữa và

những người tham gia tố tụng khác mà Bộ luật Tố tụng Hình sự (sau đây gọi tắt là

BLTTHS) quy định được xem là các chủ thể độc lập có quyền đặt câu hỏi trực tiếp

đối với bị cáo, bị hại, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác để làm

rõ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra, truy tố có đủ cơ sở để

kết tội hay không, từ đó có cơ sở xác định sự thật khách quan của vụ án.

Theo đó, xét hỏi có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, xét hỏi là nội dung nằm trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa,

được thực hiện sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.

Thứ hai, xét hỏi được thực hiện theo trình tự do BLTTHS năm 2015 quy định

và chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là HĐXX, KSV, người

bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.

Bị cáo có quyền tự hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được Chủ tọa

đồng ý.

Thứ ba, xét hỏi quy định nội dung mà HĐXX, KSV, người bào chữa, người

bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền được hỏi để làm rõ về nội dung vụ án. Tùy

5 Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 1462.

8

thuộc vào từng chủ thể có thẩm quyền hỏi mà BLTTHS quy định tương ứng nội

dung được hỏi.

Thứ tư, xét hỏi được tiến hành công khai, liên tục theo quy định của

BLTTHS và phải tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, điều này được

thể hiện cụ thể từ Điều 307 đến Điều 311 BLTTHS 2015.

Chính từ những đặc điểm này nên xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm

của hoạt động xét xử và cũng là giai đọan quan trọng nhất để xác định sự thật khách

quan của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, được xem là cách thức

kiểm tra kết quả điều tra của Cơ quan điều tra. Đối với KSV, việc xét hỏi có ý nghĩa

quyết định để xem xét, đánh giá chứng cứ và các tình tiết của vụ án cũng như khẳng

định cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật hay không.

Đây là nhiệm vụ quan trọng thể hiện được năng lực, trách nhiệm, vai trò của KSV

tại phiên tòa hình sự. Xét hỏi tại phiên tòa vừa là phương thức thực hành quyền

công tố, vừa là trách nhiệm của cơ quan công tố nhằm kiểm tra lại toàn bộ chứng cứ

một cách công khai, chứng minh mọi luận điểm nêu trong cáo trạng bằng việc chủ

động xét hỏi, đưa ra các chứng cứ để bảo vệ cáo trạng và đồng thời góp phần cùng

HĐXX làm rõ sự thật của vụ án.

* Về trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm:

Trình tự là danh từ, chỉ sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau

6

. Từ cách giải

thích này có thể thấy trình tự xét hỏi tại phiên tòa là việc quy định thứ tự các chủ thể

được quyền xét hỏi.

Nếu như BLTTHS năm 1988 quy định chung chung về trình tự xét hỏi khi

“Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các hội thẩm nhân dân,

sau đó đến kiểm sát viên”7

thì BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 2 Điều 207 về

trình tự xét hỏi như sau: “2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi

đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi

của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa

phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về

những vấn đề có liên quan đến việc giám định”8

. Tuy có tiến bộ so với BLTTHS năm

1988 về trình tự hỏi cũng như bổ sung thêm chủ thể có quyền hỏi là người bào chữa,

người bảo vệ quyền lợi của đương sự nhưng lại không quy định phải hỏi ai trước, ai

6 Trung tâm Từ điển học (2009), tlđd (5), tr. 1319.

7 Bộ luật TTHS (1988), Điều 181

8 Bộ luật TTHS (2003), Điều 207

9

sau làm cho trình tự xét hỏi trên thực tiễn có phần theo nhận định chủ quan của chủ

tọa phiên tòa, không thể hiện được tính hợp lý, nghiêm minh trong tố tụng… Quy

định trên vô hình chung làm cho Hội đồng xét xử mất đi vai trò là một vị “trọng tài”

khách quan xem xét, đánh giá chứng cứ, lập luận của các bên (bên buộc tội và bên gỡ

tội) để từ đó đưa ra những nhận định khách quan về vụ án9

.

BLTTHS năm 2015 có điểm mới tiến bộ hơn so với hai bộ luật trước đây khi

đưa cả phần xét hỏi và tranh luận thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Trên cơ sở

này, trình tự xét hỏi cũng cơ bản được sửa đổi, bổ sung so với trước đây về

việc“Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo

thứ tự hợp lý…Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết

định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi

10

. Quy định này giúp cho Chủ

tọa phiên tòa chủ động điều hành việc hỏi một cách linh hoạt, quyết định người hỏi

trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý tùy theo tính chất, nội dung vụ án và diễn biến cụ

thể tại các phiên tòa. Tuy nhiên, quy định này đã làm tăng vai trò của chủ tọa phiên

tòa, ít nhiều làm vai trò của kiểm sát viên với tư cách là chủ thể buộc tội bị mờ nhạt

tại phiên tòa11

. Bởi lẽ, KSV là người thực hiện quyền công tố, là chủ thể buộc tội tại

phiên tòa, phải là chủ thể xét hỏi chính để bảo vệ cáo trạng. Tuy nhiên, theo

BLTTHS 2015 thì trình tự xét hỏi của KSV lại sau Thẩm phán, Hội thẩm nên hầu

như đa số các vụ án được xét xử trên thực tế thì Thẩm phán, Hội thẩm là chủ thể hỏi

nhiều, hỏi kỹ đến lượt KSV thì việc hỏi mang tính hình thức, lặp lại những nội dung

mà HĐXX đã hỏi và không còn mang tính chất phải làm sáng tỏ sự thật vụ án cũng

như bảo vệ cáo trạng đã truy tố. Trong khi Điều 24 Quy chế công tác thực hành

quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số

505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

lại quy định:“Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát

viên bắt buộc phải tham gia xét hỏi…để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm

sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trò, vị trí của từng bị cáo, trách nhiệm dân

sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp”.12

9 Nguyễn Hồ Quân, “Điểm mới về trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo BLTTHS năm 2015”,

https://kiemsat.vn/, 19/4/2019.

10 Bộ luật TTHS (2015), Điều 307

11 Nguyễn Ngọc Kiện, “Đánh giá một số điểm mới về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm”,

https://lapphap.vn/, 01/7/2017.

12 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án

hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!