Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ HỒNG VĂN
TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự Và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã ngành: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Trần Thị Kim Oanh
Học viên: Lê Hồng Văn
Lớp: Cao Học Luật, Phú Yên Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh khách quan quá trình nghiên cứu.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và Hiệu trường Đại học
Luật TP Hồ Chí Minh về Luận văn Thạc sĩ này.
Tác giả
Lê Hồng Văn
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả Luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến TS. Trần Thị Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình
hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại học Luật TP Hồ Chí
Minh, cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt những kiến thức xã hội và
chuyên môn vô cùng quý giá cả về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức hữu ích
đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện công việc chuyên môn
ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn.
Xin cảm ơn tới Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
BLHS năm 2015 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015
BLTTHS năm 2003 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003
BLTTHS năm 2015 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015
KSV Kiểm sát viên
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
SƠ THẨM..................................................................................................................7
1.1. Quy định của pháp luật về xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm..............................................................................................................7
1.2. Thực tiễn xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ........11
1.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................11
1.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................12
1.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm ...................................................................................................19
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................23
CHƢƠNG 2. TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................................................................24
2.1. Quy định của pháp luật về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm ...................................................................................................24
2.2. Thực tiễn tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .27
2.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................27
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................29
2.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm.............................................................................................36
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................42
KẾT LUẬN..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh
giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng quyết định
trong giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngay sau
khi Nghị quyết số 08/NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” được quán triệt, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử
với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của cả Kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên
tòa đã thể hiện được tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm, cùng tranh luận xác
định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận luật sư,
bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng xét xử xem
xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ đã được Kiểm sát viên phân
tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo trạng, quan điểm của người bào chữa và những
người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng.
Hoạt động xét xử tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng quan trọng trong giai
đoạn tố tụng của một vụ án hình sự, trong đó vai trò tranh tụng của Kiểm sát viên là
yếu tố quyết định, bởi lẽ Tòa án chỉ quyết định việc xét xử trên cơ sở Cáo trạng truy
tố và hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang
1
. Không một cơ quan, tổ chức nào có thể
thay thế Viện kiểm sát nhân dân trong việc truy tố người phạm tội ra tòa. Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan duy nhất truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và
thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Việc xét xử có đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật hay không phụ thuộc vào công tác thực hành quyền công tố của VKSND.
Kết quả tranh tụng không chỉ là sự đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng của các giai
đoạn điều tra, truy tố, mà đây còn yêu cầu cấp thiết trong việc đảm bảo tính công
bằng, dân chủ giữa người tham gia tố tụng với vai trò thực hành quyền công tố Nhà
nước của Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng
xét xử ra bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác
1 Giới hạn của việc xét xử theo Điều 298 BLTTHS 2015
2
định vai trò quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010… đều xác
định tranh tụng trong xét xử là một trong những nội dung trọng tâm và là khâu đột
phá của tiến trình cải cách tư pháp.
Thực hiện Chỉ thị số 09/CT-VKSTC về “Nâng cao chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa”, xem tranh tụng là trọng tâm, Kiểm sát viên cơ bản đã
thể hiện rõ vai trò, vị trí pháp lý, là người đại diện Viện kiểm sát nhân dân thay mặt
Nhà nước làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Với tinh thần “tranh
tụng dân chủ” như Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW đã đề ra, các
Kiểm sát viên đã chú trọng việc kiểm tra, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và lập hồ sơ
kiểm sát xét xử án hình sự theo đúng Quyết định số 07/VKSTC-V3 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Qua các phiên tòa cho thấy kỹ năng xét hỏi, tranh luận của
Kiểm sát viên được nâng lên, thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự; chủ động tham gia xét hỏi, làm rõ những chứng cứ để chứng minh tội phạm, làm
rõ hành vi phạm tội của bị cáo, bảo vệ cáo trạng, bảo đảm việc truy tố và xét xử của
Tòa án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những phiên tòa KSV chưa nắm vững các
quy định của Luật, các văn bản dưới luật liên quan; không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án; việc chuẩn bị đề cương xét hỏi sơ sài, chưa chủ động tham gia xét hỏi; phương
pháp, nội dung tranh luận một số Kiểm sát viên còn chung chung, chưa có tính
thuyết phục; chưa sử dụng mâu thuẫn trong lời bào chữa của bị cáo, luật sư để tranh
luận. Phong cách, thái độ khi tranh luận có KSV còn thiếu bình tĩnh…
Yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh
tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp, trong đó Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” có đoạn
nêu: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác…Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người
có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
3
thuyết phục và trong thời hạn quy định”2
. Tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn
mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo
đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”3
. Đặc biệt khoản
5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm, coi đây là nguyên tắc hiến định then chốt của hoạt động xét xử. Với
yêu cầu đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm” vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
(Điều 26). Đây là tư tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây
dựng và đã được cụ thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng.
Vì xét xử được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ
tục xét xử công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,
góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Hiện thực hóa các quy định về tranh tụng của BLTTHS 2015 vào thực tiễn
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đề cao vai trò chủ
động, tích cực của Kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm làm rõ chứng cứ, chứng minh
về chủ thể và hành vi phạm tội, nhằm làm rõ có hay không có sự việc phạm tội,
tránh làm oan người vô tội, cũng như bỏ lọt tội phạm. Tranh tụng giúp làm sáng tỏ
vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, nghiêm
minh, bảo vệ công lý. Tại Chỉ thị số 09/CT-VKS ngày 06/04/2016 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xác định: “ Kiểm sát viên phải thường xuyên
nghiên cứu, nắm vững các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự,
các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là các quy định mới của
luật, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức xã hội ..vv..để chủ động
tranh tụng tại phiên tòa. Việc xét hỏi, luận tội, tranh luận ở phiên tòa thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của Ngành”
4
.
2 BCT, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới”
3 BCT, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”
4 VKSNDTC, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 về Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
4
Để đảm bảo vai trò của Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự sơ thẩm, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, từ những vướng mắc thực
tiễn nói trên, học viên chọn đề tài “Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy đã có nhiều công trình nghiên
cứu liên quan đến việc tranh tụng của Kiểm sát viên, điển hình như: bài viết “Thực
trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp” tác giả Trần Duy Bình, đã phân tích thực trạng
tranh tụng tại phiên tòa hình sự của nhiều chủ thể như: Kiểm sát viên, người bào
chữa, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 nên chỉ có giá trị tham
thảo; Đề tài khoa học “Chuyên đề tranh luận và những giải pháp nâng cao chất
lượng tranh luận của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đã phân tích rất cụ thể về số liệu thực
tiễn tranh luận của Kiểm sát viên trong xét xử án hình sự giai đoạn 2011-2013, qua
đó đề ra nhiều giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời
gian đến; bài viết “Kinh nghiệm tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự” của tác giả Lương Thị Thúy Dung đã đưa ra nhiều tình huống thực tiễn và
đề ra nhiều giải pháp rất cụ thể giúp nâng cao kỹ năng tranh luận, đối đáp của Kiểm
sát viên tại phiên tòa hình sự …
Ngoài ra, còn có một số đề tài như: Luận văn Tiến sĩ “Bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư
pháp” của tác giả Hoàng Văn Thành; Luận văn thạc sỹ “Thực tiễn thực hiện nguyên
tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” của tác giả Phan Hùng, đã phân tích rất cụ
thể về nguyên tắc trong tranh tụng trong xét xử; Luận văn thạc sỹ “Xét hỏi của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Lê Thị Thu Hải đã phân tích rất có trọng tâm về trình tự xét hỏi, nội dung xét hỏi
của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Các công trình nghiên cứu này nhìn nhận việc tranh tụng của Kiểm sát viên
tại phiên tòa hình sự với nhiều góc độ khác nhau, có giá trị thực tiễn nhất định trong
việc đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tranh tụng. Tuy nhiên, phần nhiều các
công trình nghiên cứu này rơi vào các thời điểm của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, so với Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nên giá trị
5
ứng dụng đến thời điểm hiện nay không cao. Đồng thời chưa có đề tài nào nghiên
cứu trọng tâm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự dưới góc
độ xét hỏi và tranh luận theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Để từ đó có
cách nhìn trực diện qua việc thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đánh giá những mặt đạt được cũng như những tồn
tại, hạn chế từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên trong thời gian đến…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục đích: nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn
bản hướng dẫn về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ
án hình sự, đánh giá thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên cũng như bất cập trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng cũng như những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhiệm vụ: phân tích các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam và các
văn bản hướng dẫn về xét hỏi, tranh luận của KSV tại phiên tòa hình sự; nghiên
cứu, đánh giá thực trạng xét hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên trong thời gian qua để
chỉ ra những tồn tại, hạn chế, xác định nguyên nhân dẫn đến thực trạng để đề xuất,
kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm là đề tài rất rộng nên luận văn chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu hoạt động xét
hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của
Luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản hướng dẫn. Đánh giá thực trạng xét
hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn một số
tỉnh như: Phú Yên, Đắk Lắk, Lâm Đồng để kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện
và nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.
- Phạm vi nghiên cứu: tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tế, thu thập
số liệu, tài liệu thực tiễn xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm từ năm 2017 đến 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật để
phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; các quan điểm của
6
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp; các văn bản dưới luật. Ngoài ra, còn sử
dụng các phương pháp như tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, lịch sử.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Dự kiến kết quả nghiên cứu: hoàn thiện nội dung Điều 307, Điều 320, Điều
321 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 9, Điều 24, Điều 26 Quy chế Công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết
định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao), từ đó nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự.
Địa chỉ ứng dụng: Luận văn nêu những vấn đề lý luận chung về xét hỏi, tranh
luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở tiến
hành khảo sát thực tiễn tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, qua đó đánh giá những ưu, nhược điểm, những
khó khăn, vướng mắc, bất cập từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của Kiểm sát viên trong
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Là tài liệu quan
trọng giúp cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân vận dụng
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng như đội ngũ Thẩm phán khi thực hiện nhiệm
vụ xét xử tại Tòa án. Đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng, nhất là các cơ sở bồi dưỡng chức danh tư pháp.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương với cơ cấu như sau:
Chƣơng 1. Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Chƣơng 2. Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
7
CHƢƠNG 1
XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Quy định của pháp luật về xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm
“Xét hỏi” có nghĩa là: [nhà chức trách] hỏi kĩ để phát hiện hành vi phạm pháp
hoặc tìm hiểu sự thật về một vụ án5
. Từ cách giải thích trên cho thấy “xét hỏi” là
việc làm của chủ thể có thẩm quyền và việc hỏi là để làm rõ nội dung về sự thật của
vụ án.
Xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình xét xử một vụ án hình sự,
trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa,.. phải trực tiếp xét hỏi và
nghe ý kiến của các bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,…để xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một
cách khách quan, toàn diện. Có thể nói, phần xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung
tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật
của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, được xem là cách thức kiểm
tra kết quả của cơ quan điều tra, xác định lại một lần nữa về sự thật của vụ án hình
sự, có hay không có sự việc phạm tội và tội phạm. Để thực hiện điều này, Hội đồng
xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dân), Kiểm sát viên, Người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà Bộ luật Tố tụng Hình sự (sau đây gọi tắt là
BLTTHS) quy định được xem là các chủ thể độc lập có quyền đặt câu hỏi trực tiếp
đối với bị cáo, bị hại, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác để làm
rõ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra, truy tố có đủ cơ sở để
kết tội hay không, từ đó có cơ sở xác định sự thật khách quan của vụ án.
Theo đó, xét hỏi có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, xét hỏi là nội dung nằm trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa,
được thực hiện sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Thứ hai, xét hỏi được thực hiện theo trình tự do BLTTHS năm 2015 quy định
và chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là HĐXX, KSV, người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Bị cáo có quyền tự hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được Chủ tọa
đồng ý.
Thứ ba, xét hỏi quy định nội dung mà HĐXX, KSV, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền được hỏi để làm rõ về nội dung vụ án. Tùy
5 Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 1462.
8
thuộc vào từng chủ thể có thẩm quyền hỏi mà BLTTHS quy định tương ứng nội
dung được hỏi.
Thứ tư, xét hỏi được tiến hành công khai, liên tục theo quy định của
BLTTHS và phải tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, điều này được
thể hiện cụ thể từ Điều 307 đến Điều 311 BLTTHS 2015.
Chính từ những đặc điểm này nên xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm
của hoạt động xét xử và cũng là giai đọan quan trọng nhất để xác định sự thật khách
quan của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, được xem là cách thức
kiểm tra kết quả điều tra của Cơ quan điều tra. Đối với KSV, việc xét hỏi có ý nghĩa
quyết định để xem xét, đánh giá chứng cứ và các tình tiết của vụ án cũng như khẳng
định cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật hay không.
Đây là nhiệm vụ quan trọng thể hiện được năng lực, trách nhiệm, vai trò của KSV
tại phiên tòa hình sự. Xét hỏi tại phiên tòa vừa là phương thức thực hành quyền
công tố, vừa là trách nhiệm của cơ quan công tố nhằm kiểm tra lại toàn bộ chứng cứ
một cách công khai, chứng minh mọi luận điểm nêu trong cáo trạng bằng việc chủ
động xét hỏi, đưa ra các chứng cứ để bảo vệ cáo trạng và đồng thời góp phần cùng
HĐXX làm rõ sự thật của vụ án.
* Về trình tự xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm:
Trình tự là danh từ, chỉ sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau
6
. Từ cách giải
thích này có thể thấy trình tự xét hỏi tại phiên tòa là việc quy định thứ tự các chủ thể
được quyền xét hỏi.
Nếu như BLTTHS năm 1988 quy định chung chung về trình tự xét hỏi khi
“Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các hội thẩm nhân dân,
sau đó đến kiểm sát viên”7
thì BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 2 Điều 207 về
trình tự xét hỏi như sau: “2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi
đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa
phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về
những vấn đề có liên quan đến việc giám định”8
. Tuy có tiến bộ so với BLTTHS năm
1988 về trình tự hỏi cũng như bổ sung thêm chủ thể có quyền hỏi là người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự nhưng lại không quy định phải hỏi ai trước, ai
6 Trung tâm Từ điển học (2009), tlđd (5), tr. 1319.
7 Bộ luật TTHS (1988), Điều 181
8 Bộ luật TTHS (2003), Điều 207
9
sau làm cho trình tự xét hỏi trên thực tiễn có phần theo nhận định chủ quan của chủ
tọa phiên tòa, không thể hiện được tính hợp lý, nghiêm minh trong tố tụng… Quy
định trên vô hình chung làm cho Hội đồng xét xử mất đi vai trò là một vị “trọng tài”
khách quan xem xét, đánh giá chứng cứ, lập luận của các bên (bên buộc tội và bên gỡ
tội) để từ đó đưa ra những nhận định khách quan về vụ án9
.
BLTTHS năm 2015 có điểm mới tiến bộ hơn so với hai bộ luật trước đây khi
đưa cả phần xét hỏi và tranh luận thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Trên cơ sở
này, trình tự xét hỏi cũng cơ bản được sửa đổi, bổ sung so với trước đây về
việc“Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo
thứ tự hợp lý…Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết
định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi
10
. Quy định này giúp cho Chủ
tọa phiên tòa chủ động điều hành việc hỏi một cách linh hoạt, quyết định người hỏi
trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý tùy theo tính chất, nội dung vụ án và diễn biến cụ
thể tại các phiên tòa. Tuy nhiên, quy định này đã làm tăng vai trò của chủ tọa phiên
tòa, ít nhiều làm vai trò của kiểm sát viên với tư cách là chủ thể buộc tội bị mờ nhạt
tại phiên tòa11
. Bởi lẽ, KSV là người thực hiện quyền công tố, là chủ thể buộc tội tại
phiên tòa, phải là chủ thể xét hỏi chính để bảo vệ cáo trạng. Tuy nhiên, theo
BLTTHS 2015 thì trình tự xét hỏi của KSV lại sau Thẩm phán, Hội thẩm nên hầu
như đa số các vụ án được xét xử trên thực tế thì Thẩm phán, Hội thẩm là chủ thể hỏi
nhiều, hỏi kỹ đến lượt KSV thì việc hỏi mang tính hình thức, lặp lại những nội dung
mà HĐXX đã hỏi và không còn mang tính chất phải làm sáng tỏ sự thật vụ án cũng
như bảo vệ cáo trạng đã truy tố. Trong khi Điều 24 Quy chế công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số
505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
lại quy định:“Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát
viên bắt buộc phải tham gia xét hỏi…để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm
sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trò, vị trí của từng bị cáo, trách nhiệm dân
sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp”.12
9 Nguyễn Hồ Quân, “Điểm mới về trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo BLTTHS năm 2015”,
https://kiemsat.vn/, 19/4/2019.
10 Bộ luật TTHS (2015), Điều 307
11 Nguyễn Ngọc Kiện, “Đánh giá một số điểm mới về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm”,
https://lapphap.vn/, 01/7/2017.
12 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án
hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017