Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
180
Kích thước
3.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1247

Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ VÂN HÀ

TÔN GIÁO VÀ LUẬT PHÁP VỀ TÔN GIÁO TRONG

THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2014

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Ngay từ buổi đầu thành lập, chính quyền non trẻ của Việt Nam đã quan tâm

đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

trong phiên họp đầu tiên đã tuyên bố: "Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết",

nguyên tắc đó đã trở thành chính sách nhất quán xuyên suốt qua mọi thời kỳ của

cách mạng Việt Nam.

Từ năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới sâu rộng trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội. Một trong những thành công to lớn không thể phủ

nhận, là đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo. Sự đổi mới nhận thức

về tôn giáo, có thể nói, được đánh dấu từ Nghị quyết 24/NQ-TW (1990) Về tăng

cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, với 3 luận điểm mang tính bước

ngoặt: Tôn giáo còn tồn tại lâu dài; Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của

một bộ phận nhân dân; Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây

dựng xã hội mới.

Nếu như trước đây, quan điểm, chính sách về tôn giáo thể hiện tập trung

trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam thì từ khi đất nước đổi

mới đến nay, Nhà nước thực hiện nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong

những năm gần đây, luật pháp về tôn giáo đã không ngừng được xây dựng, sửa đổi

bổ sung, hoàn thiện và có những đóng góp quan trọng trong việc củng cố khối

đoàn kết, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc trong phát triển kinh tế và giữ

vững ổn định chính trị - xã hội.

Luật pháp về tôn giáo là một lĩnh vực khá mới ở Việt Nam song cũng đã

được các nhà khoa học, các chuyên gia trong hoạt động thực tiễn quan tâm. Nhà

nước pháp quyền quản lý tôn giáo bằng pháp luật, nhưng tôn giáo lại là những thực

thể xã hội vô cùng đặc biệt, tinh tế. Vì thế, muốn xây dựng và thực thi luật pháp về

tôn giáo một cách hiệu quả thì chúng ta không chỉ nắm vững luật pháp mà cần phải

hiểu biết về tôn giáo.

3

Từ góc độ nghiên cứu tôn giáo và luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam, đã có

một số công trình liên quan được trình bày dưới dạng các bài báo, sách chuyên

khảo, luận văn, luận án. Các công trình đó đã luận bàn nhiều vấn đề về tôn giáo và

pháp quyền. Tuy nhiên, các hướng nghiên cứu sâu về luật pháp trong mối liên hệ

hữu cơ với tôn giáo, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, còn mỏng, góc độ tiếp cận

cũng khác nhau. Thực tiễn của đời sống và công tác tôn giáo trong bối cảnh mới

không ngừng biến đổi, trong khi hệ thống pháp luật tôn giáo đã bộc lộ những bất

cập. Nhiều vấn đề luật pháp liên quan đến tôn giáo trong quá khứ như vấn đề tài

sản, vấn đề tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo, hoạt động truyền giáo, sinh

hoạt tôn giáo của người nước ngoài,... vẫn chưa có câu trả lời hợp lý. Những vấn đề

phát sinh trong hoạt động tôn giáo như hoạt động xã hội của các tôn giáo, việc quy

định các chế tài vi phạm chính sách tôn giáo , tôn giáo và vấn đề an ninh, trật tự,…

chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Những thiếu sót đó đã góp phần

gây ra tình trạng lúng túng, thiếu thống nhất, thậm chí vi phạm pháp luật trong đời

sống tôn giáo, trong công tác quản lý, làm hạn chế vai trò của các tôn giáo cũng

như hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.

Pháp luật và nhà nước là hai yếu tố của thượng tầng kiến trúc luôn có mối

quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Muốn đời sống tôn giáo, công tác tôn giáo phát

triển hài hòa và bền vững, nhà nước phải quản lý xã hội nói chung và quản lý các

hoạt động tôn giáo nói riêng một cách minh bạch bằng luật pháp. Điều đó có nghĩa,

việc xây dựng một nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh là cách tốt nhất để giải quyết

ổn thỏa vấn đề tôn giáo. Do vậy, nhu cầu xây dựng một nhà nước pháp quyền thực

sự là đòi hỏi, là yêu cầu lớn và trực tiếp của đời sống tôn giáo Việt Nam đương đại.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang lan tỏa sâu rộng vào nhiều lĩnh vực của

đời sống xã hội, trong một số trường hợp cụ thể, vấn đề tôn giáo ở nước ta có thể

trở thành một vấn đề nhạy cảm để các tổ chức quốc tế và quốc gia khác lợi dụng

làm công cụ thực hiện những mục đích chính trị và kinh tế vụ lợi của họ. Vì vậy,

một mặt, cần xây dựng luật pháp về tôn giáo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

theo hướng hội nhập hơn nữa với các công ước quốc tế. Mặt khác, cần đặt vấn đề

4

xây dựng và hoàn thiện luật pháp về tôn giáo trong mối quan hệ biện chứng giữa

các bộ phận cấu thành của đời sống xã hội.

Việc tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng luật pháp về tôn giáo của một số nước

trên thế giới và tiến trình xây dựng, hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam,

chỉ ra thành tựu cũng như những vấn đề còn tồn tại của công tác này trong giai

đoạn hiện nay là một việc rất cần làm. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhiều công

trình được triển khai theo hướng này một cách bài bản và có hệ thống.

Với những lý do nêu trên, chúng tôi chọn chủ đề: “Tôn giáo và luật pháp về

tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành

Tôn giáo học.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích của luận án: Tìm hiểu mối quan hệ giữa tôn giáo và luật

pháp, tiến trình xây dựng luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam,

trên cơ sở đó nêu lên những vấn đề cần tiếp tục giải quyết để hoàn thiện hệ thống

pháp luật này, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

2.2. Nhiệm vụ của luận án: Để thực hiện được mục đích trên, luận án cần

giải quyết những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành luật pháp về

tôn giáo ở Việt Nam; tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng luật pháp về tôn giáo ở một

số quốc gia, từ đó có cái nhìn tham chiếu về tình hình xây dựng luật pháp về tôn

giáo ở Việt Nam.

Thứ hai, nghiên cứu tiến trình xây dựng, hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở

Việt Nam; nêu lên những thành tựu và hạn chế của công tác xây dựng và hoàn thiện

luật pháp về tôn giáo ở nước ta hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu

và hạn chế đó.

Thứ ba, nêu lên những vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong quá trình hoàn

thiện luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra một

số đề xuất và khuyến nghị.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

5

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề tôn giáo, chính sách, luật pháp

liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

3.2. Phạm vi nghiên cứu: Ở Việt Nam, thời kỳ đổi mới được bắt đầu từ Đại

hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 (12/1986). Tuy nhiên, phạm vi

nghiên cứu của đề tài này được xác định bắt đầu từ khi có Nghị quyết số 24 -

NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo (10/1990) và giới hạn thời gian

nghiên cứu đến khi Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 được thông qua.

Khi đề cập tới đời sống tôn giáo, chúng tôi chủ yếu tập trung vào các tôn

giáo đã được Nhà nước Việt Nam công nhận tư cách pháp nhân.

4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý thuyết

Tôn giáo là một hiện tượng văn hóa - xã hội đa phức gắn với đời sống tinh

thần của xã hội, vì vậy, luật pháp về tôn giáo, một mặt phải tuân theo những quy

chuẩn chung nhưng mặt khác lại có tính đặc thù bởi phải hướng tới điều chỉnh

những thực thể văn hóa đa tầng và nhạy cảm.

Luật pháp về tôn giáo là kết quả của quá trình hình thành, vận động, điều

chỉnh và phát triển gắn với lịch sử chính trị. Việc nghiên cứu tôn giáo và luật pháp

về tôn giáo ở luận án này được đặt trong lộ trình xây dựng nhà nước pháp quyền,

trong sự tác động biện chứng giữa những điều kiện bên trong của đời sống tôn giáo,

những đòi hỏi có tính nguyên tắc của thể chế chính trị và phù hợp với luật pháp

quốc tế, nhất là các công ước quốc tế về tôn giáo và nhân quyền mà Việt Nam đã

gia nhập. Vì vậy, để tiếp cận, làm rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu, luận án sử

dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện

chứng của triết học macxit, một số lý thuyết trong nghiên cứu tôn giáo và luật pháp.

Trong luận án, tác giả chủ yếu sử dụng các lý thuyết sau:

- Lý thuyết chức năng: Trong luận án này, chúng tôi sử dụng lý thuyết chức

năng của Emile Durkheim để tìm hiểu mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội, tôn

giáo và pháp quyền. Nhiều nhà nghiên cứu và các nhà quản lý đã nói nhiều hơn đến

“nguồn lực xã hội của tôn giáo”. Khi người ta cắt nghĩa một hiện tượng xã hội thì

6

cần phải tìm riêng nguyên nhân sản sinh ra nó và chức năng mà nó hoàn thành. Lý

thuyết chức năng cũng giúp giải thích tại sao ở mỗi bối cảnh kinh tế - xã hội của đất

nước, luật pháp về tôn giáo lại mang những dấu ấn của thời đại sản sinh ra chúng,

đồng thời luôn phải điều chỉnh, hoàn thiện để theo kịp sự vận động của đời sống

tôn giáo - xã hội.

- Lý thuyết xã hội học tôn giáo: Tôn giáo, với tư cách là những thực thể, ở

góc độ cộng đồng, là những tổ chức đặc thù chịu sự chế ước chung của xã hội. Xã

hội học tôn giáo nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ của tôn giáo với xã hội, ý nghĩa

của tôn giáo trong xã hội và sự phân bố tôn giáo trong các giai tầng xã hội. Xã hội

học tôn giáo nhấn mạnh chức năng, vai trò của tôn giáo trong đoàn thể xã hội. Sử

dụng lý thuyết này, tác giả luận án quan tâm đến vị trí, vai trò và hoạt động của tổ

chức tôn giáo như một bộ phận đặc biệt của xã hội dân sự.

- Lý thuyết địa - tôn giáo: Địa - tôn giáo là sự kết hợp nghiên cứu tôn giáo

với nghiên cứu vị trí địa lý và mối quan hệ qua lại của các tôn giáo khu vực và tôn

giáo toàn cầu. Những vấn đề như sự phân bố và biến chuyển của tôn giáo trong các

thời kỳ lịch sử khác nhau trên các khu vực địa lý, sự phản ánh và khúc xạ diện mạo

tôn giáo ở những khu vực địa lý khác nhau, tình trạng di chuyển của các quần thể

tôn giáo,… Trong luận án, chúng tôi sử dụng lý thuyết này để bàn về tình hình, đặc

điểm của tôn giáo ở Việt Nam, luật pháp về tôn giáo và một số vấn đề đặt ra đối với

tôn giáo.

- Lý thuyết văn hóa học tôn giáo: Lý thuyết này trình bày những đặc tính,

bản chất, ý nghĩa nhân văn của tôn giáo, nhấn mạnh mối quan hệ giữa tôn giáo với

văn hóa. Tác giả luận án áp dụng lý thuyết này để tìm hiểu mối liên hệ giữa tôn

giáo với văn hóa, chính trị trong xã hội, tìm điểm kết nối, đồng thuận về đạo đức,

văn hóa giữa các tổ chức tôn giáo, nhà nước và cộng đồng xã hội.

- Lý thuyết luật học so sánh: Luật học so sánh lấy lịch sử phát triển luật pháp

làm cơ sở nhưng không dựa vào chiều dọc của nghiên cứu lịch sử luật pháp mà

nhấn mạnh sự so sánh theo chiều ngang. Tác giả luận án sử dụng áp dụng lý thuyết

này để tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng luật pháp về tôn giáo ở một số quốc gia trên

thế giới để từ đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

7

Trong luận án, tác giả có đề cập đến những kiến giải về quá trình xây dựng

và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam từ góc nhìn tôn giáo mà các

chuyên gia đi trước đã bàn tới, coi đó là một thành quả nghiên cứu cần kế thừa,

song không đặt thành vấn đề cần giải quyết sâu hơn. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, nhận thức và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản và

Nhà nước Việt Nam, trên tinh thần hội nhập với các công ước quốc tế về tôn giáo

và nhân quyền là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho chúng tôi thực

hiện luận án này.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành tôn giáo

học kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như:

- Phương pháp nghiên cứu văn bản học khi tiếp cận các khái niệm, thuật ngữ

liên quan đến tôn giáo và luật pháp; tìm hiểu bản chất cũng như nội hàm của khái

niệm, thuật ngữ, phân tích các quy phạm pháp luật.

- Phương pháp so sánh để tìm sự tương đồng, khác biệt và sự tác động qua

lại giữa luật pháp về tôn giáo của một số quốc gia với luật pháp về tôn giáo ở Việt

Nam trong lịch sử và hiện tại, từ đó rút ra những bài học cần thiết.

- Phương pháp nghiên cứu lịch sử, trong đó phối hợp sử dụng hai phương

pháp lịch đại và đồng đại để đặt sự phát triển của tôn giáo và luật pháp về tôn giáo

trong dòng chảy của lịch sử, đồng thời nhìn nhận những biến cố lịch sử xã hội - tôn

giáo như là những nguyên nhân căn bản tác động tới tiến trình xây dựng và hoàn

thiện luật pháp về tôn giáo.

- Phương pháp thống kê, phân tích văn bản là những phương pháp giúp tác

giả nắm bắt những dữ liệu về tình hình tôn giáo, các văn bản quy phạm pháp luật

điều chỉnh trực tiếp và có liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam.

- Phương pháp phỏng vấn của xã hội học là một phương pháp nghiên cứu

không thể bỏ qua trong quá trình thực hiện luận án này. Ngoài việc sử dụng các tư

liệu, văn bản pháp lý của cơ quan công quyền, còn có các tư liệu truyền thông đa

8

chiều, phản ánh thái độ tiếp nhận của các tổ chức tôn giáo đối với chính sách, pháp

luật về tôn giáo.

Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã tiến hành các cuộc tọa đàm

hẹp có chọn lọc (đối tượng và nội dung), kết hợp với phỏng vấn sâu, trao đổi trực

tiếp với các chuyên gia đầu ngành.

5. Đóng góp về mặt khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án không phải là công trình chuyên khảo đầu tiên bàn đến tôn giáo và

luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam, song là công trình luận giải một cách tương đối

hệ thống về tiến trình đổi mới luật pháp về tôn giáo mang tính đặc thù của Việt

Nam: xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn đời sống tôn giáo, đòi hỏi Đảng và

Nhà nước, phải đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo. Điều đó thể

hiện cụ thể bằng việc điều chỉnh các chính sách, pháp luật liên quan tới tôn giáo,

đánh giá tác động của các chính sách, pháp luật đó, xác định những vấn đề đặt ra để

tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện luật pháp về tôn giáo.

Luận án làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tôn giáo và luật pháp, những

yếu tố tác động đến luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam và hướng tới việc đưa ra một

khung lý thuyết về luật pháp về tôn giáo xung quanh yêu cầu xây dựng nhà nước

pháp quyền. Trong một mức độ nhất định, luận án có thể dùng làm tài liệu tham

khảo cho môn học Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo, phục vụ công tác đào tạo,

nghiên cứu tôn giáo học và các bạn đọc có quan tâm đến lĩnh vực này.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài lời cam đoan, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của

tác giả có liên quan đến luận án đã công bố, tài liệu tham khảo, phụ lục, các chữ

viết tắt, các bảng, nội dung luận án gồm 04 chương với 11 tiết và tiểu kết các

chương. Chương 1: Tổng quan (gồm 2 tiết);

Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành luật pháp về tôn giáo ở

Việt Nam (gồm 3 tiết);

Chương 3: Tiến trình xây dựng, hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam

(gồm 3 tiết);

9

Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với tôn giáo và quá trình hoàn thiện luật

pháp về tôn giáo ở Việt Nam và khuyến nghị (gồm 3 tiết)

Chƣơng 1

TỔNG QUAN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1.“Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam”

nằm trong tiến trình vận động của tôn giáo và luật pháp về tôn giáo từ khi nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập.

Các nghiên cứu về vấn đề này có thể tìm thấy trong các công trình tìm hiểu

quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo.

Một trong số những công trình tiêu biểu ở chủ đề này là cuốn Lý luận về tôn

giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam (Đặng Nghiêm Vạn, Nxb Chính trị Quốc gia,

năm 2001). Cuốn sách là một phần kết quả nghiên cứu của bản thân tác giả khi đất

nước bước vào thời kỳ đổi mới về công tác tôn giáo. Trong công trình này, tác giả

đã cung cấp những vấn đề lý luận về tôn giáo, sự khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn

giáo dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu, từ đó đưa ra định nghĩa về tôn giáo của

mình. Tác giả cũng phân tích, lý giải các xu hướng tôn giáo, đồng thời giới thiệu

những vấn đề cơ bản về tình hình tôn giáo Việt Nam. Phần thứ sáu của cuốn sách

bàn về “Chính sách tôn giáo” và “Chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Tuy

nhiên, trong tổng thể một công trình chung, khá rộng, công trình này mới đề cập

những nét chung nhất về chính sách, luật pháp về tôn giáo và giới hạn vấn đề ở

những năm cuối thế kỷ XX.

Trong các năm 2000- 2002, các cuốn sưu tập về chủ nghĩa Mác - Lênin liên

tiếp ra mắt như: C.Mác, Ph.Ăng ghen về vấn đề tôn giáo (Nguyễn Đức Sự chủ biên,

Nxb KHXH, năm 2000); C.Mác, Ph.Ănghen, Lênin về tôn giáo (Nxb Tôn giáo, Hà

Nội, 2001); C.Mác, Ph.Ănghen, Lênin bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần (Viện

Mác - Lênin Trung Quốc, Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch, Nxb Chính trị Quốc gia,

năm 2001,... Những tư liệu này chứa đựng một cách tương đối hệ thống quan điểm

và lý luận chung về tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác.

10

Bàn về tư tưởng và ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tôn giáo thì khá đa

dạng, tiêu biểu như cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng

(Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Nxb KHXH, 1998); Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn

giáo và công tác tôn giáo (Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ, Nxb Tôn giáo, HN,

2003); Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

(Nguyễn Đức Lữ, chủ biên, Nxb Chính trị - Hành chính, HN, 2009); Thêm những

hiểu biết về Hồ Chí Minh (Đỗ Quang Hưng, Nxb Lao động, HN, 1999),... Hầu hết

các công trình này, dù tiếp cận ở nhiều góc độ, mức độ nghiên cứu nông sâu khác

nhau, song đều đồng thuận với nhau ở nhận định: ít có nhà lãnh đạo nào của nước

ta có được mối quan hệ tốt với các chức sắc tôn giáo và đi vào lòng các tín đồ tôn

giáo như Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 2002, Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa học xã hội Việt

Nam tham gia trực tiếp vào việc đóng góp luận cứ khoa học cho Hội nghị lần thứ

bẩy BCHTW Đảng khóa IX với đề tài “Nhà nước và Giáo hội”. Kết quả của đề tài

này sau đó đã được in thành sách với cùng tên của đề tài (Đỗ Quang Hưng chủ

biên, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2003). Cuốn sách đề cập đến các nội dung cốt lõi

trong quan hệ giữa Nhà nước với giáo hội của các tôn giáo. Vấn đề này được đặt ra

gần như đồng thời với việc thành lập nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đòi hỏi

phải bổ sung, cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối, chính sách tôn giáo, chuyển

đường lối, chính sách này thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội. Đó là

một quá trình không đơn giản, có thành công và cũng có thể có sai sót, nhất là trong

thời kỳ đổi mới, hội nhập cùng thế giới ở những năm đầu thế kỷ XXI. Vì vậy, một

nhiệm vụ đặt ra với giới khoa học và những người làm công tác tôn giáo là nghiên

cứu lý luận về vấn đề này, đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam, tìm

hiểu những bài học trên thế giới, góp phần cùng với Đảng và Nhà nước hoàn thiện

chính sách Đổi mới đối với tôn giáo. Tuy nhiên, cuốn sách chưa thể đặt vấn đề

nghiên cứu chính sách, luật pháp về tôn giáo một cách có hệ thống, đầy đủ, cập

nhật và toàn diện.

Để góp phần triển khai, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW

Đảng khóa IX “Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công

11

tác tôn giáo, tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp

luận cứ khoa học cho việc thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu

dài đối với tôn giáo”, trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ “55 năm đường

lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1945-2000)”, Viện

Nghiên cứu Tôn giáo đã cho xuất bản cuốn Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt

Nam, lý luận và thực tiễn (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005). Cuốn sách đã hệ

thống lại những đường nét chủ yếu của vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác

tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó nghiêng về lịch sử nhận thức

của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và những phác họa đầu tiên về tiến trình đó, chủ

yếu là giai đoạn từ 1945 đến 2005. Một số vấn đề thiết yếu của chính sách tôn giáo,

nhất là ở phương diện quản lý nhà nước, như: mô hình thể chế thế tục, các nguyên

tắc cơ bản khi giải quyết vấn đề tôn giáo, vấn đề xây dựng hệ thống luật pháp về

tôn giáo và thực thi chính sách tôn giáo,... đã được bàn đến. Tuy nhiên, chính sách,

luật pháp về tôn giáo chưa phải là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của công trình

này. Những vấn đề lý luận về chính sách, luật pháp về tôn giáo vẫn chưa được đề

cập đến.

Trong những năm gần đây, nhất là sau khi Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo

được thực thi và các văn bản dưới luật có liên quan được bổ sung, các công trình có

tính lý luận, tổng kết từng chặng đường thực hiện chính sách, luật pháp về tôn giáo

đã xuất hiện nhiều hơn và có những bước tiến mới.

Trong các công trình tiêu biểu của mình như cuốn Lý luận về tôn giáo và

chính sách tôn giáo ở Việt Nam (Nxb Tôn giáo, 2007; tái bản 2011) và cuốn Tôn

giáo - Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam

hiện nay (Nxb Chính trị- Hành chính, Hà Nội, 2009), Nguyễn Đức Lữ đã tập trung

chủ yếu vào các vấn đề tôn giáo ở thời kỳ đổi mới như: lý luận về tôn giáo; tình

hình tôn giáo thế giới và Việt Nam; quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước

đối với tôn giáo trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Tác giả đã bám sát văn kiện

của các kỳ Đại hội Đảng, bình luận và minh hoạ bằng dữ liệu thực tiễn, đồng thời

gợi mở những vấn đề cần trao đổi thêm. Trong cuốn Lý luận về tôn giáo và chính

sách tôn giáo ở Việt Nam, ở lần tái bản năm 2011, người đọc có thể nhận thấy tác

12

giả đã có sự điều chỉnh, bổ sung những nhận định mới, những dữ liệu mang tính hệ

thống, phát triển, linh hoạt và toàn diện hơn trong nhận thức và góc nhìn về tôn

giáo của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng,

Nhà nước về chính sách tôn giáo. Ở chương 4 cuốn Tôn giáo - Quan điểm, chính

sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, tác giả cũng đã

bàn và gợi ra những vấn đề trong “quản lý nhà nước đối với tôn giáo”, một chủ đề

lâu nay ít được trao đổi.

Từ góc nhìn khác, với những điểm tương đồng, trong cuốn Quan điểm

đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012), Nguyễn Hồng Dương đã giới thiệu quan

điểm, đường lối chính sách tôn giáo với nét riêng khi gắn với thực tiễn đời sống tôn

giáo, phác họa bức tranh tôn giáo ở Việt Nam, phân tích kinh nghiệm giải quyết

vấn đề tôn giáo ở một số nước và đề xuất một số khuyến nghị đối với công tác tôn

giáo ở nước ta hiện nay. Đầu năm 2013, đề tài khoa học cấp Bộ thuộc chương trình

“Cơ sở khoa học tiếp tục đổi mới chính sách tôn giáo trong quá trình phát triển

nhanh và bền vững đất nước giai đoạn 2011- 2020” do Nguyễn Hồng Dương thực

hiện đã được nghiệm thu. Trong công trình này tác giả tập trung vào 3 vấn đề chính

và có những thông tin, bàn luận sâu về tiến trình hình thành quan điểm, chủ trương,

chính sách của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng; những kinh nghiệm của công tác tôn

giáo của Đảng; chủ trương chính sách của Đảng trong thời gian tới đối với công tác

tôn giáo.

Trong công trình Công tác tôn giáo- Từ quan điểm Mác- Lênin đến thực tiễn

Việt Nam (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012) Ngô Hữu Thảo đã trình bày

một cách có hệ thống quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về công tác tôn giáo cũng như công tác tôn giáo của hệ thống chính trị và

một số vấn đề đặt ra hiện nay. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu mới chú ý đến vấn đề

công tác tôn giáo từ góc độ của nhà nghiên cứu.

Với đề tài trọng điểm của Đại học Quốc gia Hà Nội“Chính sách tôn giáo ở

nước ta hiện nay - Lý luận và thực tiễn” (2013) Đỗ Quang Hưng đã có một công

trình tổng kết thực tiễn đời sống tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta

13

trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những vấn đề thuộc khung lý thuyết cơ bản, trong

công trình này tác giả đã trình bày toàn cảnh đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay,

làm rõ những vấn đề đặt ra trong mối quan hệ Nhà nước và các giáo hội; khảo sát,

đánh giá bước tiến của chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới để đi đến những

vấn đề đặt ra cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tôn giáo. Mặc dù đây là

một công trình lớn, song những vấn đề về luật pháp về tôn giáo mới được đề cập

đến một cách khái quát hoặc chỉ đi sâu vào những nội dung mà tác giả quan tâm.

Một số vấn đề về tôn giáo và nhà nước pháp quyền, vấn đề các hội dân sự, trong đó

có hội đoàn tôn giáo và các nội dung liên quan đến công cụ quản lý xã hội là luật

pháp còn để ngỏ, mang tính gợi mở.

Ngoài ra, còn một số công trình khác giới thiệu về các tôn giáo trên thế giới

có tác động đến tôn giáo, nhận thức về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam,

cũng đã được tham khảo. Chẳng hạn như: cuốn Một số tôn giáo ở Việt Nam của

Nguyễn Thanh Xuân, (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007); Đề tài khoa học cấp Bộ của

Nguyễn Mạnh Cường Bối cảnh mới về tôn giáo quốc tế và khu vực tác động đến

tôn giáo Việt Nam (năm 2010); Sách tham khảo Tôn giáo với đời sống chính trị - xã

hội ở một số nước trên thế giới của Nguyễn Văn Dũng, (Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, 2012),...

Trong gần mười năm qua, nhiều Hội thảo khoa học liên quan trực tiếp đến

đề tài luận án cũng đã được tổ chức. Hội thảo "Bước đầu trao đổi: Tôn giáo và

pháp quyền ở Đông Nam Á", năm 2006, với sự tham dự của hơn 60 học giả từ 12

quốc gia châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Các đại biểu tham dự đã trao đổi nhiều vấn

đề bổ ích liên quan đến tôn giáo từng nước và khu vực, sự biến đổi và bối cảnh hiện

nay của luật pháp về tôn giáo ở Đông Nam Á, xác định các bước tiếp cận so sánh

về điều chỉnh tôn giáo thông qua pháp quyền, chia sẻ kinh nghiệm của các nước.

Hội thảo “Tôn giáo và pháp quyền ở Đông Nam Á”, năm 2007 tập trung

thảo luận về các chủ đề then chốt đã được nêu ra tại Hội thảo năm 2006 như so

sánh các mô hình quan hệ nhà nước - giáo hội; vấn đề pháp nhân tôn giáo; tình hình

và tiến triển của luật pháp về tôn giáo ở Đông Nam Á. Ngoài ra, Hội thảo còn đề

cập đến những vấn đề mới và thời sự hơn như: tôn giáo và an ninh nhà nước; các

14

vấn đề thuế, tài chính liên quan đến hoạt động tôn giáo; hoạt động của các tổ chức

tôn giáo nước ngoài tại Đông Nam Á; vấn đề tôn giáo và giáo dục;… Tại Hội thảo,

tham luận của các học giả Việt Nam nêu ra những khó khăn và thách thức của việc

quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo hiện nay. Tham luận của các học giả quốc

tế nhấn mạnh những nỗ lực tìm kiếm mô hình quan hệ nhà nước - giáo hội thích

hợp ở Châu Âu, việc quản lý hoạt động từ thiện của các nhóm tôn giáo ở Mỹ, tham

luận của các học giả từ các nước Đông Nam Á như Singapore, Phillipines, Thái

Lan, Malaysia nêu ra những kinh nghiệm thực tế khi nhà nước phải mau chóng giải

quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo trên phương diện pháp luật.

Hội thảo Tôn giáo và pháp quyền ở Đông Nam Á, năm 2011, thảo luận các

vấn đề quan trọng về vai trò của nhà nước trong việc điều hành, quản lý và tạo điều

kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường, có đóng góp vào sự ổn định và phát

triển của toàn xã hội, tập trung vào các vấn đề: So sánh các mô hình quan hệ nhà

nước - giáo hội; vấn đề pháp nhân tôn giáo; tình hình hiện tại và tiến triển của luật

pháp về tôn giáo ở Đông Nam Á. Hầu hết các ý kiến đều nhất trí quan điểm chung

cho rằng, các nhóm tôn giáo có khả năng đóng góp vào sự thịnh vượng chung của

xã hội, họ dạy con người về đạo lý, nhân sinh quan và những tiêu chí đạo đức, họ

có những chính sách cụ thể trong việc chăm sóc người nghèo và điều đó giúp giảm

bớt gánh nặng tài chính cho các chính quyền địa phương trong đảm bảo an sinh xã

hội,... Tuy vậy, tất cả những điều đó chỉ có thể trở thành hiện thực nếu tất cả các

nhóm tôn giáo được các chính phủ tạo điều kiện để họ được tự do thực hành các

hoạt động tôn giáo trong xã hội.

Ngoài ra, tại các hội thảo có liên quan như: Hội thảo Cơ sở khoa học tiếp tục

đổi mới chính sách tôn giáo trong quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước

giai đoạn 2011-2020, Đà Nẵng, 2011; Hội thảo Đổi mới chính sách tôn giáo ở Việt

Nam- những vấn đề thực tiễn, TP Hồ Chí Minh, 2011; Hội thảo Tôn giáo và nhà

nước pháp quyền XHCN về tôn giáo, Hà Nội, 2013, cũng có nhiều bài viết có giá

trị. Tham luận của các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã đi sâu

nghiên cứu, giới thiệu những vấn đề lý luận, tình hình tôn giáo, thực tiễn xây dựng,

thi hành chính sách, luật pháp về tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam.

15

Khi đề cập đến vấn đề tôn giáo và luật pháp về tôn giáo phải kể đến các công

trình nghiên cứu đăng trên hai tạp chí chuyên ngành tôn giáo học, đó là Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo (thuộc Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học

xã hội Việt Nam) và Tạp chí Công tác Tôn giáo (thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ,

Bộ Nội vụ). Trên các trang của hai tạp chí này thường xuyên có các bài nghiên cứu,

dịch thuật về quá trình đổi mới đường lối chính sách, pháp luật tôn giáo ở nước ta,

đồng thời giới thiệu luật pháp về tôn giáo ở các quốc gia khác. Một số bài viết của

các nhà nghiên cứu trên hai tạp chí này, tác giả luận án đã tham khảo trực tiếp, thí

dụ như: Sự ra đời và địa vị pháp lý của “Luật pháp về tôn giáo (Tạp chí Công tác

tôn giáo, số 11 - 2008) và Vấn đề công nhận các tổ chức tôn giáo - tiếp cận so

sánh: trường hợp Việt Nam (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1 – 2007) của Đỗ

Quang Hưng; Quyền con người trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam (Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 – 2013) của Nguyễn Quốc Tuấn; Quy định pháp luật

về công nhận tổ chức tôn giáo (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4 - 2012) của

Nguyễn Thanh Xuân; Xây dựng và hoàn thiện luật pháp về tôn giáo: Nhìn từ đời

sống văn hóa Việt Nam, (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 - 2013) của Nguyễn

Thị Vân Hà; v.v...

Ngoài các đề tài nghiên cứu khoa học được xuất bản thành sách, các tham

luận tại các hội thảo khoa học, các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành, còn

có các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu trực tiếp về luật pháp về tôn

giáo ở Việt Nam. Đó là: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Diện (2003) “Hoàn

thiện pháp luật tôn giáo ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Kim Định

(2007) “Tôn giáo và pháp luật của Việt Nam từ năm 1990 đến nay”; Luận án tiến

sĩ Trần Minh Thư (2004) “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam

hiện nay”;... Tuy cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu khác nhau, song các công

trình trên đều có điểm chung là hướng về vấn đề hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở

Việt Nam cho đến thời điểm năm 2007.

Trong số các tư liệu, tài liệu được sử dụng làm tài liệu gốc để nghiên cứu

phục vụ cho việc triển khai luận án phải kể đến các văn kiện, văn bản pháp quy,

báo cáo tổng kết công tác tôn giáo của các cấp chính quyền. Các tư liệu này được

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!