Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo của người lô lô ở miền Tây Cao Bằng từ 1945 đến nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THÙY DƢƠNG
TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở
MIỀN TÂY CAO BẰNG TỪ 1945 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Đàm Thị Uyên
2013
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cao Bằng – nơi có đường biên giới giáp với Trung Quốc, đây là vùng giữ
vị trí đặc biệt quan trọng về nhiều mặt trong lịch sử dân tộc và là cái nôi của
cách mạng Việt Nam. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, Cao Bằng đã
tích lũy được một bề dầy lịch sử - văn hóa rất đa dạng và phong phú. Đồng thời
đây cũng là địa điểm cộng cư của nhiều dân tộc anh em: Kinh, Tày, Nùng,
Mông, Lô Lô, Dao… Các dân tộc này sinh sống xen kẽ nhau tạo thành một
khối đoàn kết thống nhất, lại mang đến cho tỉnh Cao Bằng một nền văn hóa tộc
người đặc sắc
Miền Tây Cao Bằng là khu vực có địa hình hiểm trở, điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt. Do nằm cách xa trung tâm thị xã Cao Bằng, giao thông đi lại còn nhiều
hạn chế, nên kinh tế - xã hội gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nơi đây lại là địa
bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người: Mông, Lô Lô, Dao… Đặc biệt, đây là khu
vực tập trung đông dân cư thuộc tộc người Lô Lô nhiều nhất ở Việt Nam.
Người Lô Lô hiện nay còn lại ở Việt Nam không nhiều. Họ là một trong
những dân tộc rất ít người. Là một bộ phận của tộc người Di - một bộ tộc thiểu
số của người Tây Tạng - Miến Điện, sống ở miền Nam Trung Quốc. Vào thế kỉ
XVIII, do chế độ áp bức ở Trung Quốc, một số bộ phận của tộc người này đã
chuyển về sống ở miền Bắc Việt Nam. Người Lô Lô hiện nay tập trung chủ yếu
ở hai huyện Bảo Lâm và Bảo Lạc (Cao Bằng). Đại bộ phận cư dân này đều
sống trong hoàn cảnh khó khăn, sinh hoạt tiện nghi gần như là không có, đặc
biệt người Lô Lô mang những nét văn hóa bộ tộc từ xa xưa cho đến ngày nay
vẫn được bảo tồn, gần như không bị đồng hóa với bên ngoài.
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, “bản sắc dân tộc” là một vấn đề
được Đảng - Nhà nước quan tâm và đề cao trong quá trình lãnh đạo xây dựng
đất nước. Việc lưu giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của
3
người dân Việt Nam. Hiện nay, những nghiên cứu về người Lô Lô vẫn còn khá
ít, cho nên sự hiểu biết về dân tộc này còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, nghiên
cứu về người Lô Lô sẽ đáp ứng được nhu cầu bức thiết của thực tiễn về phát
triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Lô Lô,
mà cụ thể là người Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng.
Người Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng do có đường biên giới giáp với Trung
Quốc, nên người Lô Lô có một bộ phận có nguồn gốc của người Di (Trung
Quốc). Người Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng phần lớn sinh sống ở các xã vùng
sâu, vùng xa, đời sống gặp nhiều khó khăn, hàng năm vẫn nhận được sự hỗ trợ
đặc biệt của Nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước… Điều tra, nghiên cứu
về người Lô Lô ở khu vực này, không những góp phần đánh giá hiệu quả của
các chương trình, dự án mà còn cung cấp cơ sở khoa học để điều chỉnh, xây
dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa trong những giai đoạn tiếp theo. Đồng thời còn góp phần cung cấp dữ
liệu làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng khu vực biên giới và việc định
hướng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai bên biên giới Việt – Trung.
Ngoài ra, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quát hơn về người Lô Lô trong các
lĩnh vực văn hóa, tổ chức xã hội, tôn giáo tín ngưỡng. Nhìn nhận vai trò của tộc
người này trong lịch sử phát triển của dân tộc. Đây chính là cơ sở để tăng
cường tính đoàn kết giữa các dân tộc trong cùng một địa phương, và sự gắn bó
giữa các dân tộc trong một quốc gia – vì đoàn kết là sức mạnh to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Chính vì vậy, tôi chọn: “Tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo của người
Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng từ 1945 đến nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, với
mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo tồn những di sản văn hóa
truyền thống của người Lô Lô – một dân tộc với dân số rất ít nhưng có nền văn
hóa đặc sắc và độc đáo.
4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã được thừa hưởng kết quả
nghiên cứu của những người đi trước đề cập đến vấn đề nghiên cứu một cách
trực tiếp hay gián tiếp ở những khía cạnh khác nhau như:
Đầu tiên là Cuốn “Văn hóa và nếp sống Hà Nhì – Lô Lô”, của Nguyễn
Văn Huy, Nhà xuất bản Văn hóa, 1985. Đây là các công trình nghiên cứu kĩ về
các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến ở Việt Nam, trong đó có người
Lô Lô. Các nghiên cứu trên đã mô tả về hệ thống thân tộc, các mối quan hệ
trong gia đình, họ tộc của người Lô Lô. Tuy nhiên, người Lô Lô chưa được tác
giả đề cập nhiều trong ấn phẩm đó.
Tiếp theo là tác phẩm“Trống đồng cổ với các dân tộc ở Hà Giang” của
Lò Giàng Páo, Nhà xuất bản Thế giới, xuất bản 1996. Tác phẩm này tuy không
phải là chuyên khảo về người Lô Lô, song đã phần nào giúp người đọc hiểu
được đại cương về những nét văn hóa của họ.
Khóa luận tốt nghiệp “Bước tìm hiểu về văn hóa của người Lô Lô ở huyện
Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng”, Mông Thị Xoan, 2001. Khóa luận đã có chỉ ra những
nét cơ bản về bản sắc dân tộc của người Lô Lô, đặc biệt là những giá trị văn
hóa của người Lô Lô Đen ở Bảo Lạc – Cao Bằng.
Bộ sách “Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng”, Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh
Cao Bằng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, 2008. Bộ sách đã đề cập đến tất
cả mọi lĩnh vực từ tự nhiên - kinh tế - văn hoá - xã hội đến lịch sử, quốc phòng
- an ninh... của tất các xã, phường, thị trấn trong tỉnh qua các thời kỳ. Các tư
liệu, tài liệu lịch sử truyền thống cách mạng của các xã đều được khai thác, sưu
tầm. Trong đó hai huyện Bảo Lâm, Bảo Lạc (Cao Bằng) được đề cập rất sâu và
rõ trong quyển II của bộ sách này.
Tác giả Vũ Diệu Trung (chủ biên) với cuốn “Người Lô Lô Đen ở Hà
Giang”, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2009. Đây là cuốn sách nghiên cứu sâu
về người Lô Lô Đen ở Hà Giang – một nhánh của người Lô Lô. Cuốn sách trên
5
tổng hợp tất cả các vấn đề xoay quanh người Lô Lô và cuộc sống, con người
của họ. Từ đời sống sinh hoạt vật chất đến tinh thần, từ sản xuất kinh tế đến tổ
chức xã hội, tín ngưỡng tôn giáo. Từ những lễ hội của người Lô Lô Đen ở Hà
Giang cho đến những bài múa, bài ca dao cổ của họ.
Cuối cùng là cuốn sách “Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam”, Khổng Diễn - Trần
Bình, Nhà xuất bản Thông tấn, 2011. Đây là sách chuyên khảo hoàn chỉnh về
người Lô Lô ở Việt Nam, chủ yếu là người Lô Lô ở Hà Giang, ở Bảo Lâm,
Bảo Lạc (Cao Bằng). Cuốn sách đã nghiên cứu rõ về môi trường tự nhiên,
nguồn gốc lịch sử, dân số, đời sống kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa vật chất -
tinh thần của người Lô Lô ở Việt Nam.
Đây là tổng quát kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về người dân
tộc Lô Lô, đó là những gợi ý quý báu, tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực
hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Thực hiện đề tài này chúng tôi tìm hiểu về người
Lô Lô ở 2 huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng, bên cạnh đó phản ánh
một cách khoa học, chân thực về lịch sử hình thành, tổ chức xã hội, văn hóa tín
ngưỡng của người Lô Lô, đồng thời góp phần bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử
địa phương cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Thái Nguyên.
- Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức xã hội, tổ chức làng bản, gia đình, dòng
họ và tín ngưỡng, tôn giáo của người Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng từ năm
1945 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu: + phạm vi không gian: nghiên cứu trên hai huyện
là Bảo Lạc và Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng hiện nay.
+ phạm vi thời gian: từ năm 1945 đến nay.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu: Nghiên cứu về tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo
của người Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng từ năm 1945 đến nay gặp rất nhiều khó
6
khăn trong việc tìm kiếm tài liệu. Tuy nhiên để hoàn thành tốt luận văn tôi đã cố
gắng sưu tầm và tập hợp nguồn tư liệu trên nhiều phương diện khác nhau như:
+ Nguồn tư liệu chung: Đại Việt sử ký toàn thư, Kiến văn tiểu lục, Đại
Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đồng khánh dư địa chí …
+ Nguồn tư liệu địa phương như: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, Thống kê nhân
khẩu chi tiết của Phòng Thống kê huyện Bảo Lâm, huyện Bảo Lạc; Nghị quyết của
hội đồng nhân dân huyện; Các bài ca dao, truyền thuyết dân gian, thơ ca…
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử
dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic; phương pháp khảo sát điền
dã dân tộc học; phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê các nguồn tư liệu.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn còn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và toàn
diện về tổ chức xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo của người Lô Lô ở miền Tây Cao
Bằng từ 1945 đến nay.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho quá trình học tập bộ môn lịch sử địa
phương, cơ sở văn hóa cũng như giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ
thông. Đồng thời làm cơ sở cho các nhà quản lý hoạch định chính sách dân tộc,
góp phần thực hiện mục tiêu bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
của người Lô Lô nói riêng và dân tộc thiểu số ở Cao Bằng nói chung.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận (9 trang), nội dung luận văn được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về miền Tây Cao Bằng
Chương 2: Tổ chức xã hội của người Lô Lô ở miền Tây Cao Bằng từ
1945 đến nay
Chương 3: Tín ngưỡng và tôn giáo của người Lô Lô ở miền Tây Cao
Bằng từ 1945 đến nay
7
Ngoài ra, luận văn còn có tài liệu tham khảo, 10 bảng thống kê, 5 phụ
lục cùng 12 ảnh minh họa.
8
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH MIỀN TÂY CAO BẰNG
9
BẢN ĐỒ CƢ TRÚ NGƢỜI LÔ LÔ Ở MIỀN TÂY CAO BẰNG
10
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ MIỀN TÂY CAO BẰNG
1.1 Vị trí địa lí – điều kiện tự nhiên
Miền Tây Cao Bằng bao gồm địa phận của 4 huyện: Thông Nông,
Nguyên Bình, Bảo Lâm, Bảo Lạc (Luận văn nghiên cứu về người Lô Lô thuộc
hai huyện Bảo Lâm và Bảo Lạc). Khu vực này có đường biên giới giáp với
Trung Quốc ở phía Bắc, phía Tây giáp với tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp với
tỉnh Bắc Cạn, phía Đông giáp với huyện Hà Quảng và Hòa An.
Miền Tây Cao Bằng nằm trong hành lang biên giới Đông – Tây phía Bắc
của Tổ Quốc nên có vị trí tương đối thuận lợi. Ở đây có 47,5 km đường biên
giới với Trung Quốc, với các chợ: Cô Ba, Cốc Pàng - tương lai sẽ trở thành
những cửa khẩu quan trọng sau năm 2020 [19, tr 343]
Miền Tây Cao Bằng là khu vực vùng sâu vùng xa với địa hình chủ yếu là
núi đất, với các dải núi đá vôi xen kẽ nhau. Xen giữa các núi đá, núi đất là
những thung lũng với nhiều hình thái khác nhau. Ở đây có một số ngọn núi cao
như sau: núi Ma Thiên Lĩnh (xã Cô Ba, Bảo Lạc) đây là ngọn núi cao 1200m so
với mực nước biển; núi Chẻ Bản Miỏng cao khoảng 1200m, núi Phja Rạc cao
1500m, núi Nạm Phùm cao 1800m, núi Đán Khao (xã Đình Phùng, Bảo Lạc)
cao 1400m so với mặt nước biển [33, tr49]; dãy núi Phja Đi (xã Hồng Trị, Bảo
Lạc) nằm ở phía sau xóm Khâu Pầu từ đỉnh chạy dài đến giáp xóm Thôm
Trang tạo thành hình vòng cung, núi phía Đông Nam là núi đá vôi pha đất độ
cao 1000m; núi Mạ Quỷnh (xã Hồng Trị, Bảo Lạc) nằm ở đằng sau xóm Nà
Van, Cốc Muồi, Lũng Tiến kéo dài từ xóm Cốc Muồi đến Pác Nậm (Bắc Cạn),
đây là núi đá vôi pha đất có độ cao 1150m, núi Khâu Sa (xã Hồng Trị, Bảo
Lạc) kéo dài từ Nà Tồng đến giáp xóm Vằng Lình, xã Hưng Đạo, nằm sau xóm
11
Nà Soen, giáp với Tát Kè (xã Hồng Trị, Bảo Lạc) và xóm Khuổi Mực (xã
Hưng Đạo, Bảo Lạc) là núi đất pha đá có độ cao 1200m [33, tr 71]. Ở phía Bắc
xã Đức Hạnh (Bảo Lâm) có dãy núi đá vôi gọi là núi Lũng Pịa, thuộc xóm
Lũng Mần, chạy dài biên giới Việt – Trung, dài khoảng 7km, độ cao từ 1000 –
1500m so với mặt nước biển. [33, tr 163]
Đặc biệt núi Phja Dạ (xã Sơn Lộ, Bảo Lạc) cao 1987m [33, tr 129], được
coi là nóc nhà phía Đông Bắc Bộ, một cảnh quan thiên nhiên kì vĩ. Từ trên đỉnh
núi một dòng nước tuôn ra, lan tỏa thành dòng thác mềm mại xen lẫn những đám
mây bồng bềnh trông rất đẹp mắt. Có khá nhiều truyền thuyết về núi Phja Dạ
vừa thực vừa hư. Truyền thuyết kể rằng: trên đỉnh núi có bãi đất bằng, có cây
cam, quýt, lê, đào của tiên trồng, có “ai” (vũng) nước trong, sâu bên trong còn
có con cá to, lạ thỉnh thoảng nổi lên. Ở núi Phja Dạ có vàng sa khoáng được
khai thác từ thời Pháp thuộc. Đã có nhiều đoàn địa chất đến khảo sát, theo các
nhà địa chất, ở bản Riêng có mỏ quặng có thể khai thác trong tương lai.
Rừng ở miền Tây Cao Bằng chủ yếu là những cánh rừng nằm trên các quả
đồi và núi. Bao gồm rừng núi đá và rằng núi đất. Ví dụ như: Những cánh rừng
Pù Vi, Hát Soóc (thị trấn Bảo Lạc, Bảo Lạc), rừng Chẻ Pà, Giàng Sán (xã Đình
Phùng, Bảo Lạc) với nhiều rừng cây mạy kẹo, mạy cáng lò, mạy xả cài, mạy
khỉ lếch cao vút và bạt ngàn cây lát, nghiến, lim… (loại gỗ quý), dưới mặt đất
có nhiều cây sa nhân (loại thuốc quý). Trước kia rừng ở đây còn nổi tiếng với
cây mác cai - đây là loại cây mọc nhiều dọc bở sông Gâm, từ bến phà Pác Gào
đến Pác Pẹt dài 4 km, có những gốc cây to đến 2 - 3 người ôm không xuể, cây
cao, cành lá xum xuê, từng chùm quả khi chưa chín có màu lá mạ, khi chín có
màu vàng như quả xoài, quả to bằng quả trứng gà, hạt như hạt xoài, ăn vừa
thơm vừa bùi, quả mác cai có thể ăn thay cơm. Theo kinh nghiệm dân gian,
năm nào mác cai sai trĩu quả là năm đó mất mùa. Cho nên gần đây, cây mác cai
bị chặt phá làm củi nên còn lại rất ít.