Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ tu huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Trần Thị Mai An
TỔ CHỨC XÃ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI CƠ TU
HUYỆN NAM ĐÔNG TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Chuyên ngành: Nhân học văn hóa
Mã số: 62 31 65 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC VĂN HÓA
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Khổng Diễn
2. TS. Bùi Văn Đạo
HÀ NỘI - 2013
2
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tổ chức xã hội là một trong những thành tố quan trọng của văn hoá tộc
người, là chất kết dính cộng đồng, hướng đến sự vận hành trôi chảy của cấu trúc xã
hội. Trong Nhân học, tổ chức xã hội là một trong những hướng được nhiều nhà
nghiên cứu lựa chọn. Nội hàm của mảng học thuật này rất phong phú khiến ranh
giới các vấn đề cụ thể cần nghiên cứu của nó với các mảng học thuật khác không dễ
tách bạch được.
Tổ chức xã hội truyền thống của các dân tộc thiểu số cũng như đa số trên thế
giới và ở Việt Nam đều phản ánh thành phần cấu trúc, cơ chế hoạt động, hay thiết
chế tồn tại cụ thể của một hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết cá nhân trong cộng
đồng nhằm đạt được một mục đích nhất định nào đó. Dựa vào các nguyên lý về
dòng máu hay quan hệ công xã láng giềng, mà tổ chức xã hội đã được xem xét ở
nhiều cấp độ khác nhau như nhóm, gia đình, dòng họ, bản làng… Trong xu thế đổi
mới, giao lưu hội nhập hiện nay, hầu hết các tổ chức xã hội đều không giữ được
những khuôn mẫu truyền thống của mình. Sự thay đổi đó biểu hiện nhiều xu thế hay
các trạng hướng vận động mới của văn hóa, xã hội con người, có mặt hạn chế và
cũng có mặt tích cực. Nghiên cứu tổ chức xã hội truyền thống của một tộc người cụ
thể, như người Cơ tu ở huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế trong bối cảnh hiện
tại, là một trong những công việc giúp sự tiếp cận vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
nghiên cứu có nhiều ý nghĩa hơn.
Với dân số khoảng 61.588 người, phân bố chủ yếu ở hai tỉnh Quảng Nam và
Thừa Thiên Huế, Cơ tu là một trong những dân tộc thiểu số còn lưu giữ được nhiều
yếu tố văn hóa bản địa trong số 54 tộc người đang sinh sống trên đất nước Việt
Nam. Từ những hợp phần gia đình, dòng họ, bản làng, bức tranh tổ chức xã hội
truyền thống của tộc người dần được hiện lên với những cấu trúc, quy mô và cơ chế
hoạt động khác nhau. Ở mỗi thời điểm, mỗi hoàn cảnh, tổ chức xã hội ấy thể hiện
những dấu ấn tiếp biến trong cấu trúc hoạt động và chức năng của mình. Trong bối
3
cảnh hiện tại, những thay đổi về bản chất, cấu trúc, chức năng, quan hệ gia đình,
dòng họ, bản làng cộng đồng người Cơ tu đang là những xu thế biến đổi tất yếu của
quá trình tộc người. Tuy nhiên, điểm tất yếu đó không phải bao giờ cũng mang đến
những thuận lợi hay sự hòa hợp với xu thế, bối cảnh của sự thay đổi. Việc nhận diện
một cách chính xác những giá trị trong tổ chức xã hội truyền thống tộc người là
những khởi đầu thuận lợi và hữu hiệu trong việc xác định mối quan hệ giữa cơ chế
vận hành theo tập quán pháp với hình thái quản lý nhà nước; nhằm giảm thiểu
những khoảng cách, sự chồng chéo va chạm giữa hai hình thức quản lý; và đặc biệt
có thể tạo nên những nhân tố thúc đẩy sự phát triển thông qua chính sách, hệ thống
quản lý hiện tại của Nhà nước.
Luận án này vì vậy đặt vấn đề nghiên cứu, cung cấp những tư liệu cụ thể về
bản chất các loại hình tổ chức xã hội truyền thống người Cơ tu trong lịch sử, và tiếp
cận những xu hướng biến đổi của nó trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của đất
nước chính là một việc làm có ý nghĩa khoa học thiết thực; không chỉ góp phần
khẳng định những giá trị văn hoá của tộc người qua cơ chế tổ chức xã hội truyền
thống, mà còn góp phần phát huy những giá trị văn hóa cần kế thừa, cải biến để
lồng ghép; hay kết hợp với hình thức quản lý xã hội hiện tại, nhằm tìm kiếm một
mô hình tối ưu, phát huy được điểm tích cực của các hình thức quản lý xã hội đó,
cũng như phục vụ cho sự nghiệp quản lý bền vững cộng đồng dân tộc của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài: Tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ tu huyện Nam
Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế, luận án nhằm các mục đích sau:
Thứ nhất, trình bày có hệ thống và tương đối toàn diện các đặc trưng của tổ
chức xã hội truyền thống người Cơ tu và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã
hội.
Thứ hai, chỉ rõ những biến đổi của tổ chức xã hội truyền thống tộc người Cơ
tu trong bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập hiện nay.
4
Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu, luận án đóng góp một số ý kiến về việc kế
thừa và phát huy những mặt tích cực của tổ chức xã hội truyền thống, nhằm bảo tồn
văn hóa tộc người và nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý nông thôn vùng
miền núi của người Cơ tu huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu: Tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ tu và
những biến đổi của nó trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi và địa bàn nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung
vào tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ tu huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên
Huế từ trước cho đến nay. Trong đó chú ý đến các vấn đề cụ thể là tổ chức gia đình,
tổ chức dòng họ và tổ chức làng.
Địa bàn nghiên cứu của luận án được triển khai tại bốn xã có số lượng người
Cơ tu chiếm đa số là xã Thượng Lộ, Hương Sơn, Thượng Nhật và Thượng Long.
Thượng Lộ là xã có vị trí nằm gần đường quốc lộ, gần trung tâm của huyện
lỵ Nam Đông, nơi có điều kiện giao lưu và hội nhập với văn hoá người Kinh; xã
Hương Sơn và Thượng Nhật là hai xã trong nhiều năm qua nhận được nhiều dự án
đầu tư, nhiều mô hình chuyển đổi hình thức kinh tế sản xuất, kinh tế hộ, đang được
thí điểm; xã Thượng Long là xã nằm cách xa trung tâm huyện Nam Đông, nơi vẫn
còn lưu giữ nhiều dấu ấn văn hoá cổ truyền của tộc người. Việc lựa chọn bốn điểm
nghiên cứu với các vị trí không gian khác nhau sẽ tạo được nhiều cơ hội cho luận án
tổng hợp, phân tích và nhận xét một cách khách quan hơn những đặc điểm cổ
truyền, những đan xen biến đổi của tổ chức xã hội truyền thống người Cơ tu, huyện
Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế qua từng giai đoạn lịch sử.
4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
5
Thứ nhất, luận án là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống,
đi sâu vào cấu trúc, đặc trưng, vai trò của tổ chức xã hội truyền thống người Cơ tu ở
huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thứ hai, luận án nêu bật những đặc điểm riêng mang tính địa phương của tổ
chức xã hội truyền thống người Cơ tu vùng Nam Đông và bước đầu xác định những
giá trị văn hóa tiêu biểu trong tổ chức xã hội truyền thống ấy, chỉ báo các xu hướng
biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay.
Thứ ba, luận án góp phần làm rõ hơn sự hiểu biết chung về bức tranh người
Cơ tu ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn
đến sự biến đổi của tổ chức xã hội truyền thống người Cơ tu.
Thứ tư, các kết quả đạt được của luận án là sự đóng góp thiết thực vào việc
xây dựng cơ sở khoa học cho việc định hướng các chính sách bảo tồn và phát huy
văn hoá tộc người, góp phần phục vụ cho việc quản lý bền vững vùng nông thôn
miền núi trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
5. NGUỒN TƢ LIỆU CỦA LUẬN ÁN
Để hoàn thành luận án này, chúng tôi kế thừa các nguồn tài liệu được công
bố về người Cơ tu, hoặc liên quan đến người Cơ tu từ trước đến nay của các học giả
trong nước và nước ngoài, đồng thời dựa vào các thống kê số liệu đã được xuất bản,
các báo cáo, tài liệu, trang web của cơ quan ban ngành ở UBND tỉnh Thừa Thiên
Huế, huyện Nam Đông và các xã trong phạm vi nghiên cứu. Nguồn tài liệu chính
được sử dụng cho luận án là những tài liệu thu thập, tổng hợp được nghiên cứu điền
dã ở các điểm đã lựa chọn.
Tuy vậy trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu thực tế, chúng tôi đã gặp phải
không ít khó khăn do quá trình nghiên cứu người Cơ tu ở Việt Nam từ trước đến
nay chỉ dừng ở mức độ tổng hợp, chưa tập trung vào một vấn đề cụ thể về tổ chức
xã hội truyền thống. Ngoài ra, như sẽ đề cập ở phần lịch sử vấn đề, các thông tin
liên quan đến người Cơ tu ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế chưa có nhiều
công trình xuất bản, vậy nên sự tiếp cận tài liệu thành văn về vấn đề nghiên cứu của
6
luận án còn ít. Đó là những hạn chế có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình nghiên cứu
và thực hiện luận án.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, phần nội dung chính được
trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan đề tài, cơ sở lý thuyết, phương pháp và địa bàn nghiên
cứu
Chương 2: Các hợp phần của tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ tu
Chương 3: Những biến đổi của tổ chức xã hội truyền thống từ sau 1975 đến
nay
Chương 4: Kết quả và bàn luận
CHƢƠNG 1
7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƢƠNG PHÁP, VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tổ chức xã hội truyền thống là một phần quan trọng trong đời sống của bất
cứ tộc người nào. Cơ chế hoạt động của tổ chức xã hội đóng vai trò nền tảng trong
việc bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội tộc người.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “tổ chức xã hội” không đơn thuần là một đối tượng
nghiên cứu độc lập của một ngành khoa học nào, mà cơ bản, những vấn đề thuộc về
hoặc liên quan đến tổ chức xã hội cũng là các đối tượng thu hút được sự quan tâm
của các học giả ở nhiều ngành khoa học khác nhau. Điều này cho thấy tổ chức xã
hội và các vấn đề liên quan đến nó có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến mọi sự
tồn tại, biến đổi và phát triển của tộc người.
1.1.1 Các nghiên cứu về tổ chức xã hội truyền thống ở Việt Nam
Những nghiên cứu sớm nhất về tổ chức xã hội của các dân tộc ở Việt Nam
không được nêu thành một công trình với tên gọi cụ thể là tổ chức xã hội, nhưng
vấn đề này từ sớm đã được đề cập, đan xen trong các trang viết về lĩnh vực Dân tộc
học ở Việt Nam của các học giả trong và ngoài nước.
Đối với các học giả ngoài nước, trong công trình của Paul Huard và A.
Maurice (1939) [153], có miêu tả, đưa hình ảnh, tranh minh họa đơn vị làng là tổ
chức xã hội cơ bản của tộc người Mnong. Cadière L. (1940) đã khái quát về tổ chức
xã hội làng, gia đình, quan hệ cộng đồng của người Bru-Vân Kiều và Tà Ôi ở miền
Trung Việt Nam [151]. Jacques Lucien Dournes (1948, 1977) cung cấp cho người
đọc các thông tin về các đơn vị xã hội cơ bản của tộc người qua các định chế, quyền
lực của người đứng đầu, qua phong tục tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng
người Thượng Đồng Nai, và người Giarai [148], [149]. P.Guilleminet (1952) có đề
cập đến thiết chế làng, luật tục trong quan hệ dòng họ, hôn nhân và quản lý cộng
đồng của người Bana [81]...
8
... Nhìn chung những nghiên cứu nói trên của các học giả Pháp về cơ bản
không đi sâu vào bất cứ một lĩnh vực Dân tộc học cụ thể nào. Họ chủ yếu khái quát
một số tộc người thiểu số Việt Nam qua các tín ngưỡng cổ truyền, phong tục tập
quán kỳ lạ..., và đâu đó trong các trang viết là một vài nét điểm xuyết về tổ chức xã
hội của tộc người.
Đối với các học giả trong nước, bên cạnh các nghiên cứu về lịch sử tộc
người, văn hóa vật chất, sinh hoạt kinh tế, tín ngưỡng tôn giáo..., cũng không có
nhiều công trình mang tên gọi cụ thể là “tổ chức xã hội”. Tuy nhiên, nội dung của
các bài nghiên cứu lại đề cập đến các vấn đề thuộc tổ chức xã hội hoặc có liên quan
đến tổ chức xã hội. Và đến nay, những hiểu biết của giới Dân tộc học Việt Nam về
lĩnh vực này được tích lũy đáng kể.
Cụ thể, các bài viết, công trình sách của các tác giả như Nguyễn Văn Tiệp
(1976) tập trung phân tích cơ cấu tổ chức, dòng họ và những mối quan hệ về cư trú,
kinh tế, xã hội, tôn giáo tín ngưỡng, giữa đơn vị làng và dòng họ của người Pa Cô ở
Bình Trị Thiên [103]. Khổng Diễn (1977) đã chỉ ra các yếu tố xã hội đặc trưng của
nhóm Triêng ở Quảng Nam - Đà Nẵng thông qua việc phân tích tổ chức làng, gia
đình, dòng họ của tộc người trong đối sánh với người Bana và người Catu [19].
Nguyễn Từ Chi (1984) đã đánh dấu bước đột phá trong nghiên cứu tổ chức,
đặc điểm cơ bản của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ thông qua khung quy chiếu về cơ
chế hoạt động, các mối quan hệ xã hội, quan hệ đất đai qua nhiều lát cắt lịch sử.
Đây là công trình tiêu biểu trong nghiên cứu cấu trúc làng người Việt [11]. Nghiên
cứu của Trần Từ (1984), cũng là một trong số ít những công trình tiêu biểu đầu tiên
bàn về tổ chức làng người Việt Bắc Bộ. Tác phẩm đã khái quát đơn vị làng như một
thực thể xã hội gồm nhiều thành tố là kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng,
cảnh quan môi trường tự nhiên; và trong các thành tố trên lại chứa đựng nhiều thành
tố nhỏ như gia đình, dòng họ, phe, giáp, hội, phường, hương ước, tục lệ… [102]. Bế
Viết Đẳng (1984, 1987) lại chú trọng tổ chức làng các dân tộc Trường Sơn - Tây
Nguyên; tổ chức bản mường, gia đình, dòng họ người Thái ở Mường Thanh, Điện
Biên Phủ và mối quan hệ xã hội gắn bó của các thành viên làng, bản mường trong
9
sự tồn tại của các thiết chế, tổ chức xã hội tộc người [26], [27]. Phan An (1985) đề
cập tổ chức xã hội người Xtiêng qua thiết chế làng bản và bước đầu biểu hiện của
quan hệ bóc lột trong xã hội tộc người [2]. Phan Xuân Biên (1985) lại nêu và phân
tích các đặc điểm của đơn vị xã hội làng các dân tộc Tây Nguyên qua cơ cấu tổ
chức quản lý và đặc thù về quyền sở hữu tập thể của làng đối với đất và rừng [9].
Bùi Xuân Đính (1985), đã gây được sự chú ý trong nghiên cứu Dân tộc học người
Việt khi khái quát những đặc điểm cơ bản của làng xã Việt, phân tích các yếu tố
tích cực và hạn chế của truyền thống tự quản cộng đồng làng xã [31]. Vũ Lợi (1987)
bàn về nội hàm của tổ chức làng người Bru và mối quan hệ cộng đồng trong làng
thông qua các thiết chế làng bản [72].
Lưu Hùng (1992c) nhấn mạnh tổ chức tự quản truyền thống quan trọng của
các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên là làng và bàn về cấu trúc vận hành
làng qua nguồn nhân lực chủ chốt cũng như mối quan hệ trong sở hữu và phân tầng
xã hội các tộc người [56]. Đặc biệt là bài viết “Về việc nghiên cứu tổ chức và quan
hệ xã hội các dân tộc” năm 1994 của cùng tác giả, đã khái quát và chỉ ra các bất cập
trong nội hàm nghiên cứu của tổ chức xã hội và quan hệ xã hội các dân tộc Việt
Nam [58]. Đặng Nghiêm Vạn (1993) có một công trình mang tính học thuật cao.
Mặc dù không lấy tổ chức xã hội làm đối tượng nghiên cứu chính, nhưng bằng
phương pháp phân tích so sánh đối chiếu, trong việc vận dụng các luận điểm cơ bản
của F.Engels trong cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước” để luận bàn về các vấn đề kinh tế - xã hội, vấn đề sở hữu, hôn nhân, gia đình
của các tộc người ở Tây Nguyên đã làm nổi bật đặc thù của tổ chức xã hội cổ truyền
các dân tộc; đồng thời góp phần lý giải về sự chuyển tiếp của Tây Nguyên từ xã hội
công xã nguyên thủy sang xã hội công nghiệp [116]. Phạm Quang Hoan (1994) đề
cập đến các giá trị ứng xử của tộc người H‟Mông với việc quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên qua luật tục, qua các hình thức tổ chức xã hội cổ truyền như bản làng,
dòng họ [41]. Phan Đại Doãn (1992) thì tìm hiểu về cơ cấu tổ chức, thiết chế nông
thôn, kết cấu kinh tế xã hội, của làng xã người Việt và (2004) trong phần III, bàn
sâu về tổ chức quản lý nông thôn dưới góc độ dân tộc học, nhất là về thiết chế chính
10
trị - xã hội và phương thức quản lý của các loại hình làng ở Bắc Bộ, ấp ở Nam Bộ,
làng bản của các tộc người ở miền núi, làng công giáo... Tác phẩm này đã đặt dấu
ấn đầu tiên trong việc nghiên cứu nông thôn Việt Nam dưới góc độ quản lý xã hội
[22], [23]. Vi Văn An (1995, 1998) lại bàn về thiết chế làng - chiềng với các chức
lang đạo, lang cun, vai trò của dòng họ Mường với chế độ cha truyền con nối trong
quản lý xã hội và sở hữu đất đai của người Thái ở miền Tây Nghệ An [3]... Phan
Hữu Dật (1999a, 1999b) đã bàn về một hệ thống các giá trị chuẩn mực trong tổ
chức gia đình, dòng họ, làng và vai trò, chức năng của các tổ chức này trong việc
đảm bảo sự tồn tại và trật tự xã hội của các DTTS Việt Nam [15], [16].
Nguyễn Ngọc Thanh (1999, 2007) đã trình bày các đặc điểm về không gian,
cấu trúc, sự vận hành của tổ chức làng bản và các thiết chế văn hóa của làng bản
người Dao, người Hà Nhì [89], [90]. Ngô Đức Thịnh (2003a) đề cập đến vai trò của
tổ chức xã hội truyền thống trong việc quản lý cộng đồng thông qua mối quan hệ
giữa làng và luật tục của các tộc người Tây Nguyên hiện nay [96]. Hà Văn Linh
(2005) quan tâm đến tổ chức xã hội cổ truyền và những biến đổi của nó ở người
Mường Thanh Sơn, Phú Thọ [71]. Phạm Văn Tuấn (2008) trình bày một cách có hệ
thống tổ chức xã hội truyền thống của làng Việt ven biển huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa trước Cách mạng tháng Tám 1945, và những biến đổi của nó qua các
thời kỳ lịch sử, thông qua việc trình bày và phân tích những đặc điểm của làng, các
loại hình sở hữu trong cộng đồng làng xã [110]. Bùi Minh Đạo (2010, 2011) thì dựa
trên các số liệu và những tác động mới của quá trình di cư ở Tây Nguyên sau năm 1975,
đã phân tích tổ chức xã hội hiện tại ở đây qua các dạng thức như thôn làng dân tộc Kinh,
DTTS mới đến, DTTS tại chỗ và thôn làng xen cư DTTS tại chỗ với dân tộc mới đến…
[29], [30].
Những công trình nêu trên đã cho thấy một bức tranh toàn cảnh về các dạng
thức tổ chức xã hội truyền thống, các vấn đề của tổ chức xã hội trong đời sống các
dân tộc.
Như vậy, có thể thấy trong lĩnh vực nghiên cứu tổ chức xã hội, tùy vào từng
mức độ khác nhau, việc nghiên cứu đã được tiến hành đối với các vùng, các tộc
11
trong toàn quốc, ở cả người Kinh cũng như 53 dân tộc anh em. Quá trình nghiên
cứu này đã trải qua một chặng đường khá dài với sự đóng góp công sức và trí tuệ
của các thế hệ những người nghiên cứu. Những chuyên khảo dưới dạng
monography ngắn hoặc dài về từng dân tộc, các công trình viết có phổ rộng hay
nghiên cứu liên quan, các tạp chí, luận án, sách, báo cáo khoa học về lĩnh vực tổ
chức xã hội là những thành tựu ghi nhận sự hiểu biết cơ bản về lĩnh vực này của
giới Dân tộc học Việt Nam. Đây là sự đóng góp không nhỏ cho khoa học về mặt lý
luận “đặc biệt là đối với nghiên cứu xã hội tiền Nhà nước, sự hình thành Nhà nước
sơ khai, các loại hình lịch sử công xã, sự phát triển chế độ sở hữu, sự chuyển biến từ
quan hệ huyết thống sang quan hệ láng giềng, sự tiến hóa từ xã hội nguyên thủy
sang xã hội có giai cấp…” [58:51]. Đồng thời có đóng góp không nhỏ cho thực tiễn.
Tuy nhiên, trên thực tế, lĩnh vực nghiên cứu về tổ chức xã hội ở nước ta vẫn
chưa đồng đều trên diện rộng. Nhiều dân tộc chỉ mới được dành cho một vài chục
trang, thậm chí chỉ mấy trang viết về mảng tổ chức xã hội. Tài liệu, thông tin về các
dạng thức tổ chức xã hội, cũng như nội dung hoạt động, sự biến đổi qua các thời kỳ
của nó trong lịch sử tộc người của các dân tộc vẫn chưa đầy đủ. Đặc biệt là những
hạn chế như chưa thống nhất về mặt thuật ngữ, luận giải nội dung/tính chất của khái
niệm “tổ chức xã hội”, vậy nên các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của lĩnh vực
này khá đa dạng. Bên cạnh đó, các công trình đã điểm ở trên từ trước đến nay
dường như thiên về Dân tộc học người Việt, cụ thể là mảng đề tài về tổ chức xã hội
(làng xã) của người Việt, mà chủ yếu là vùng trung du ở Bắc Bộ, còn vùng miền
Trung và đặc biệt là Nam Bộ thì chưa có nhiều nghiên cứu.
Mặc dù còn các hạn chế như vậy nhưng nhìn chung, tổ chức xã hội là hướng
nghiên cứu được các nhà dân tộc học Việt Nam hết sức quan tâm, chú trọng, có
phần nhiều hơn so với một số lĩnh vực nghiên cứu khác. Rõ ràng không thể phủ
nhận các thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực này của ngành Dân tộc học nước ta
trong việc nhìn nhận ngày càng sát thực và đầy đủ về xã hội của cư dân các vùng,
các tộc người cụ thể, cũng như giúp ích cho công tác thực tiễn, ổn định, xây dựng,
và phát triển đất nước.
12
1.1.2 Các nghiên cứu về ngƣời Cơ tu và tổ chức xã hội của tộc ngƣời
Trở lại với dân tộc đang được nghiên cứu của luận án này, các công trình
nghiên cứu về người Cơ tu (vùng miền núi miền Trung Việt Nam) từ trước đến nay
dường như ít tập trung vào nhóm Cơ tu ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Mà nhìn chung, người Cơ tu cư trú vùng Quảng Nam - Đà Nẵng được nhiều học giả
quan tâm nhiều hơn, vì đó là địa bàn cư trú chính của tộc người này. Bên cạnh đó,
Cơ tu cũng là một trong những tộc người tiêu biểu của nhóm Môn-Khơme ở miền
Trung Đông Dương, còn lưu giữ được nhiều yếu tố văn hóa bản địa; từ phương thức
sản xuất mang nặng tính tự nhiên, kỹ thuật canh tác đơn giản, công cụ lao động thô
sơ, nhiều nghi lễ tín ngưỡng cho đến sự bảo lưu mạnh mẽ yếu tố tự quản cộng đồng
của tộc người… Tất cả những điều ấy đã thu hút sự quan tâm tìm hiểu, khám phá,
say mê nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước.
Từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, rất ít các nghiên cứu đề cập đến tộc
người này ngoại trừ một vài dòng ít ỏi trong sách “Ô Châu Cận Lục” của Dương
Văn An (1555) ở đời nhà Mạc [1]. Sách “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn
(1776) đời nhà Lê, thống kê nơi ở và tộc danh của tộc người [32]. Bộ sử “Đại nam
Nhất Thống Chí” (1910) dưới triều Nguyễn, quyển về Thừa Thiên phủ và Quảng
Nam có vài dòng điểm qua địa bàn cư trú, phong tục đặc trưng liên quan đến tập tục
trồng lúa và thờ cúng của dân tộc này [25].
Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị và đế quốc Mỹ xâm lược, có không ít các
học giả nước ngoài (chủ yếu là Pháp) đã để tâm nghiên cứu và công bố nhiều công
trình có liên quan đến tộc người Cơ tu. Cụ thể là Louis Bezacier (1912) [152],
J.Hoffet (1933) [150], Georges Coedes (1956) [137], Robert Mole (1970) [147],
Nancy A. Costello (1972) [132]… Các bài viết, tác phẩm trên chủ yếu đề cập đến
các tiêu chí phân lập cư trú, nguồn gốc tên tự gọi, ngôn ngữ, và tín ngưỡng của tộc
người... [133:162-165].
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, tác phẩm gây được tiếng vang lớn đối
với các học giả nước ngoài quan tâm về các dân tộc ở miền Trung Việt Nam là “Les
chasseurs de Sang” (Những kẻ săn máu) của Le Pichon (1938). Cách viết theo lối
13
văn ký sự của Le Pichon đã đưa quyển sách này trở thành một trong những công
trình sơ khảo dân tộc học Việt Nam ấn tượng ở thời điểm đó. Sách được trình bày
theo nhóm các vấn đề, ngắn gọn và thú vị như: Xứ Katu và người Katu; Làng, nhà
và nghệ thuật Katu; Đời sống Katu; Những bài hát Katu; Cái chết - sự thờ cúng
người chết; Những cuộc săn máu; Các tập tục mê tín; Lễ hội, vũ điệu Katu. Người
đọc như bị cuốn theo từng trang bút ký, chia sẻ cùng Le Pichon những khó khăn,
thuận lợi, những niềm vui nỗi buồn trong quá trình nghiên cứu văn hóa của ông
trong mỗi trang viết [68]. Đối với những công trình nghiên cứu về Dân tộc học Việt
Nam của các học giả Pháp vào thời gian sau, công trình Le Pichon (1938) luôn được
trích dẫn và trở thành nguồn khơi tạo niềm say mê nghiên cứu của họ. Đó là
Jacques Dournes (1948) [148]; Frank và các cộng sự (1964) [136], M. Murphy và
Marilou Fromme (1966) [138], R. Mole (1970) [147], A. Thomas Krish (1973)
[123], G. Hickey (1993) [35], Janet Hoskins (1996) [140] và Nancy Costello (2003)
[133].
Như vậy có thể thấy, cùng với công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp
ở Việt Nam, các tộc người thiểu số khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên và bắc miền
Trung nói riêng dần được biết đến bởi các học giả người Pháp (và kể cả một số
người Việt như Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi (1937) “Les Bahnar De
KonTum” (Người Ba-na ở Kon Tum); Phạm Xuân Tín (1957) “Phong tục đồng bào
Thượng ở Pleiku”; Nguyễn Trắc Dĩ (1972) “Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt
Nam”) trên rất nhiều khía cạnh như văn hóa, địa chính trị, hôn nhân, tín ngưỡng…
Nguồn tư liệu trong thời kỳ này của các học giả nước ngoài (chủ yếu là Pháp), dù
muốn hay không, đều ít nhiều phục vụ cho chính quyền thực dân và công cuộc khai
thác thuộc địa. Những tập du khảo, trang bút ký, báo cáo khoa học được công bố
phần nhiều nặng về mặt miêu thuật những hiện tượng rời rạc, ít nhiều đều cho thấy
cách nhìn và chủ trương của họ đối với bộ phận người dân tộc thiểu số Việt Nam
lúc này - đang được nhìn nhận như những bộ phận người dã man, mông muội,
nguyên thủy… Dẫu còn hạn chế như vậy nhưng không thể phủ nhận được đây là
14
những nguồn tài liệu sớm, có những đóng góp nhất định cho buổi đầu phát triển
ngành Dân tộc học Việt Nam qua nghiên cứu của các học giả nước ngoài.
Đối với các học giả trong nước, năm 1960, trên tập san Dân tộc số 16, trong
bài viết “Sơ lược giới thiệu dân tộc Ka-tu”, tác giả Ngọc Anh đã cung cấp cái nhìn
sơ lược nhưng bao quát được các khía cạnh văn hoá tộc người. Từ việc giải thích
nguồn gốc tên gọi, phương tiện cư trú, đặc điểm nhân chủng, ngôn ngữ, phương
thức sản xuất, phân tầng xã hội, vai trò của các nhân vật lãnh đạo trong làng, những
phong tục tập quán cho đến tinh thần mạnh mẽ chống đối thực dân xâm lược của tộc
người. Tuy những phác thảo của bài viết trên chỉ là sơ lược, nhưng lại là khảo cứu
đầu tiên về người Cơ tu trên diễn đàn Khoa học xã hội Việt Nam [4].
Từ sau năm 1975 đến nay, việc nghiên cứu lịch sử, văn hoá các dân tộc trên
đất nước Việt Nam được mở rộng nhằm đáp ứng mục tiêu hiểu biết lẫn nhau, gìn
giữ, bảo tồn và phát huy sức mạnh văn hoá dân tộc. Các công trình nghiên cứu về
người Cơ tu xuất hiện ngày càng nhiều, bao quát khắp các lĩnh vực cuộc sống của
tộc người.
Ở khía cạnh tổng quát về tộc người Cơ tu, các bài viết, công trình sách của
Trần Văn Tuấn (1981) [111]; Nguyễn Quốc Lộc (1984) [70]; Khổng Diễn (1984,
1993) [20], [21]; Nguyễn Xuân Hồng (1996) [44]; Tạ Đức (2002) [33]; Bh‟ríu Liếc
(2009) [69] đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn hệ thống trên các lĩnh vực. Nếu
như các nghiên cứu của Khổng Diễn (1984), Nguyễn Quốc Lộc (1984) đề cập đến
hoạt động kinh tế, làng mạc, trang phục, ăn uống, xã hội, hôn nhân và gia đình bằng
phương pháp trình bày từng vấn đề nhằm nêu bật đặc điểm cơ bản của tộc người, thì
Tạ Đức (2002) lại trình bày công trình nghiên cứu của mình dưới dạng 17 câu hỏi,
giải đáp như “Người Katu là ai, nguồn gốc của họ thế nào?”, “Tên gọi Katu có
nghĩa là gì?”… và 7 chủ đề như “Cột tế Katu và truyền thuyết Ja rai”, “Tượng ma
thuật Katu”… Cứ như vậy, tác phẩm này đã kích thích được tính hiếu kỳ của độc
giả trong việc khám phá “một trong những sắc thái văn hóa tộc người cổ kính nhất
và đặc sắc nhất ở miền Trung Việt Nam trong cái nhìn so sánh với các văn hóa tộc
người khác ở Việt Nam và Đông Nam Á” [33:1]. Nhìn chung tác phẩm này thích
15
hợp với sự tìm hiểu khái quát văn hoá tộc người Cơ tu trong xu thế du lịch văn hoá
làng bản tộc người thiểu số hiện nay chứ không phải là một chuyên khảo sâu các
vấn đề nghiên cứu cụ thể của văn hoá tộc người.
Cũng ở phần tổng quát, bắt đầu từ các bài viết quan tâm về các dân tộc
Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung và người Cơ tu nói riêng từ những năm 1991-
1992, tập sách “Góp phần tìm hiểu Văn hóa Cơ-Tu” của Lưu Hùng (2006) [62] là
một điểm nhấn ghi nhận sự góp phần làm gia tăng hiểu biết trên nhiều phương diện
về dân tộc này của tác giả. Cuốn sách ngoài phần nói đầu và phụ lục bao gồm các
phần giới thiệu chung về tộc người Cơ tu; Đôi nét về lịch sử; Làng và nhà cửa; Họ
hàng và hôn nhân; Phương thức kiếm sống; Phong tục trong chu kỳ đời người; Tín
ngưỡng - Tôn giáo. Ưu điểm lớn nhất từ tập sách này đem lại chính là nguồn tư liệu
phong phú được tích lũy trong nhiều năm của tác giả, với đối tượng cụ thể là người
Cơ tu cư trú ở vùng miền núi tỉnh Quảng Nam.
Ở nhóm dòng họ, hôn nhân, gia đình, có khá nhiều công trình đã được công
bố của các tác giả như Phan Hữu Dật (1964, 1992) [13] [14]; Khổng Diễn (1974)
[18]; Nguyễn Hữu Thấu (1976) [92]; Phạm Quang Hoan (1979) [39]; Trần Văn
Tuấn (1981) [112]; Nguyễn Xuân Hồng (1994, 1998b) [43], [46]; Lưu Hùng (1995)
[59]; Phạm Thị Xuân Bốn (2007) [10]; Lê Anh Tuấn (2007) [109]. Trong đó, các
nghiên cứu của Phan Hữu Dật (1964), Nguyễn Hữu Thấu (1974), Phạm Quang
Hoan (1976), là những khảo cứu chuyên sâu về hôn nhân và gia đình các dân tộc
bắc Trường Sơn nói chung và ở người Cơ tu nói riêng. Các tác giả đã giới thiệu và
phân tích một cách hệ thống đặc điểm hình thái hôn nhân và gia đình của tộc người.
Các tàn tích liên minh hôn nhân ba thị tộc, khái niệm dòng họ, các đặc tính cơ bản
của dòng họ - đơn vị có vai trò rất quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình
của người Cơ tu lần đầu tiên được đi sâu phân tích. Đây là một đóng góp rất lớn cả
về lý luận và thực tiễn của các nghiên cứu này cho dù trước đó vào năm 1938, cuốn
sách nổi tiếng “Les chasseurs de Sang” (Những kẻ săn máu) đã ra đời. Tuy tác
phẩm này có miêu tả chế độ dòng họ, quan hệ hôn nhân và gia đình, các nghi lễ kết