Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng
PREMIUM
Số trang
427
Kích thước
24.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
884

Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TS. NGUYỄN XUÂN HƯƠNG

CVDẴNVENBÉ

ỉyỈNGÌỈI

* J

Tử ĐIỂN BÁCH KHOA & VIỆN VAN HOÁ

T í \ \G U Ỡ \G CU DẢ> VẸN BIẾN

QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

(HÌNH THÁI, ĐẶC TRƯNG VÀ GIÁ TRỊ)

NGUYỄN XUÂN HUONG

T í \ NGƯỠNG Cư DÂN VEN BIỂN

QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

(HÌNH THÁI, ĐẶC TRƯNG VÀ GIÁ TRỊ)

NHÀ XUẤT BẢN Tử ĐIỂN BÁCH KHOA & VIỆN VĂN HÓA

HÀ NỘI - 2009

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẰT

1. CHXHCN

2. CN

3. ĐHQG

4. ĐHSP

5. GS

6. NXB

7. TP

8. TS

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

CÔNG NGUYÊN

ĐẠI HCC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC Sư PHẠM

GIÁO Sư

NHÀ XUẤT BẢN

THÀNH PHỐ

TIẾN Sĩ

- 4 -

£ è ỉ mả đầu

Cho đến nay, tín ngưỡng - một thành tố^ văn hoá

truyền thông, vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sông

của cộng đồng. Xó là một hiện tượng văn hóa tinh thần

phản ánh ước vọng thiêng liêng của con người đổi với cuộc

sông hiện hữu, đồng thời là sự thể hiện th ế ứng xử của con

người trong các môi quan hệ với môi trường môi sinh để

sinh tồn và phát triển, thông qua đó, các giá trị văn hoá

được sinh thành và bồi đắp.

Trong văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Xam, văn

hoá của cư dân ven biển, trong đó có văn hoá tín ngưỡng, là

một bộ phận quan trọng, góp phần làm nên cấu trúc và diện

mạo văn hoá Việt Xam. Xgưòi miền biển, bên cạnh những

sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng nằm trong hệ tín ngưỡng

chung của dân tộc, còn có những sắc thái riêng, mang tính

đặc thù, do được sinh thành và gắn bó chặt chẽ với hoạt

động ngư nghiệp biển. Tuy nhiên, ỏ mỗi vùng biển, sắc thái

đó không hoàn toàn đồng nhất. Vì vậy, nghiên cứu tín

ngưỡng và sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cu' dân ven

biên nước ta sẽ không thể bỏ qua việc khảo cứu ỏ từng địa

dư cụ thể. Công việc này là cần thiết, nhằm góp phần làm

5 -

rõ sự tương đồng và khác biệt, một biểu hiện của tính thông

nhất và đa dạng của văn hoá biển Việt Xam.

ớ nước ta, các lĩnh vực văn hoá của cư dân ven biển đã

được quan tâm nghiên cứu và đạt những thành tựu học

thuật. Tuy nhiên, đa phần vẫn tập trung ở vùng Bắc Bộ và

Bắc Trung Bộ. Vùng biển Xam Trung Bộ và Xam Bộ, trong

đó có Quảng Xam và Đà xẵng, hiện đã có một sô' cuô'n sách,

bài báo viết về để tài này. Riêng lĩnh vực tín ngưỡng và văn

hoá tín ngưỡng, hầu hết các chuyên luận chỉ tập trung vào

hình thái tín ngưỡng đặc thù của dân biển là thờ cá voi.

Trong nhận thức của chúng tôi, việc nghiên cứu văn hoá tín

ngưỡng của cư dân ven biển, bên cạnh nghiên cứu tín

ngưỡng đặc thù thì không thể bỏ qua các hình thái tín

ngưỡng và sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng khác. Vì đó là việc

làm thiết thực góp phần bổ sung vào lĩnh vực học thuật, qua

đó nhận diện các giá trị văn hoá, các tài sản văn hoá của cư

dân ven biển cả nước nói chung, Quảng Xam - Đà x ẵn g nói

riêng để bảo tồn và phát huy trong cuộc sông hiện nay.

Do điều kiện tự nhiên mà bắt đầu từ miền Trung trở

vào, nhất là vùng Trung Trung Bộ và Xam Trung Bộ, đòi

sông của cư dân rất đậm màu sắc biên. Phương thức sinh

tồn để có các sản phẩm từ biển như cá, tôm, muối... đã để

lại dấu ấn, làm nên sắc thái văn hoá có nhiều nét khác văn

hoá trồng lúa nước. Tín ngưỡng, bộ phận được xem như

một hình thái ý thức, một phương thức ứng xử của cư dân

TÍN NGƯỠNG Cư DÁN VEN BIỂN QUẢNG NAM - ĐÀ NẲNG

e -

. \ y / / ỵ / ‘/ ể . Ẩ , ìr / f / ỵ t

biến cũng sẽ có sắc thái khác với tín ngưỡng nông nghiệp.

Việc lý giái một cách khoa học các hình thái tín ngưỡng

liên quan đến biển ỏ một địa chi cụ thể chính là góp phần

bô sung kiến thức về lý luận và thực tiễn trong việc nhận

diện văn hoá Biển, để từ đó nghiên cứu nhằm hoàn thiện

cấu trúc hệ thông văn hoá của người Việt: văn hoá Xúi,

văn hoá Châu thổ và văn hoá Biển.

Xghiên cứu các hình thái tín ngưỡng của cư dân ven

biển Quảng Xam - Đà xẵng, theo chúng tôi, sẽ có tác dụng

và ý nghĩa đối với thực tiễn và học thuật. Đê có cơ sở kê

thừa và phát huy các thành tựu về lý luận và thực tiễn,

chúng tôi tiến hành tập hỢp, nghiên cứu các công trình, bài

viết của những người đi trước có liên quan đến đê tài. Qua

đây, có thể phác thảo việc nghiên cứu tín ngưỡng và văn

hoá tín ngưỡng cư dân ven biển nước ta nói chung và

Quảng Xam - Đà x ẵng nói riêng.

Trước năm 1945, một sô" học giả Pháp và Việt đã lưu

tâm đến tín ngưỡng của cư dân ven biển nước ta.

Phải kể đến đầu tiên là các tác phẩm của các nhà X”ho

trưóc thế kỷ XX, như: Thối thực ký văn của Trương Quốc

Dụng, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Đại

Nam nhất thông chí - phần tỉnh Thừa Thiên của Quốc sử

quán triều Xguyễn. Các tác phẩm này đều nói về vai trò

quan trọng của cá VOI trong đời sông của ngu dân Trung

Bộ và Xam Bộ, vì thê mà được dân biển sùng kính.

Sau này, một người nước ngoài - Imh mục người Pháp

Leopold Cadiere, người có nhiều chuyên khảo về tín ngưỡng

dân gian Việt Xam, đặc biệt là tín ngưỡng dân gian ở Huê

và vùng phụ cận, cũng có một chuyên kháo về tín nguởng cu'

dân ven biển dưới tiêu đề "Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân

gian vùng thung lủng Nguồn Sơn". Tác phẩm đã phản ánh

tục thờ cá voi, đồng thòi còn đề cập đến tín ngưỡng Ma rà,

một loại ma nước mà dân biển rất kinh sỢ. Đên học giả

X^guyễn Văn Huvên, trong tác phẩm Văn minh Việt Nam,

phần viết về "Đời sống tôn giáo” bằng tiếng Pháp (đã dịch

ra tiếng Việt, trong Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt

Nam) cũng đề cập đến sự sùng bái cá voi của cư dân ven

biển. Phần viết chỉ đưa ra nhận định mà không mô tả và

bình luận, cũng không nói phạm vi của tục thò.

Với tác phẩm Việt Nam văn hoá sử cương, một tác phẩm

có tính chất giáo khoa, học giả Đào Duy Anh đã nêu một vài

hình thức tê tự có liên quan đên cư dân ven biển, như: tục

cúng những hòn đá ở giữa ghềnh hoặc ở bờ biển, vì chúng

thường gây nguy hiểm cho ghe thuyền; tục thờ cá voi như thò

một vị thần bảo hộ của dân miền biên. Do tính chất của tác

phẩm nên tác giả cũng chỉ nêu mà không mô tả và bình luận.

Sau năm 1945, ỏ miền XMm, có thê kê đến hai tác

phẩm viết bằng tiếng Pháp là Kẻ thừa tự của ông Nam Hải

của Cung Giũ Xguyên (Le Fils De La Baleine, đã dịch ra

tiếng ViệU và Tục thờ cá VOI của Thái Văn Kiểm. Ca hai

TÍN NGƯỠNG Cư DÂN VEN BIỂN QUẢNG NAM ■ OÀ NẢNG

- a

tác phẩm cùng đề cập khá sâu sắc đến sự thờ phụng cá voi

.của cư dân ven biển phía Xam, nhưng ở hai quan điểm

khác nhau: Kẻ thừa tự của ông N am Hải mô tả tục thò cá

voi như môt hủ tuc cần phải loai bỏ, còn Tuc thờ cá voi lai

được khảo tả với tư cách là một phong tục chỉ có ở cư dân

miền biển. Cùng với hai tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đó

là một sô" tác phẩm viết bằng tiếng Việt trong giai đoạn

này, như: Nếp củ của Toan Ánh, mô tả tục thò cúng cá voi

của cư dân Vàm Láng: Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh

Hoà của Lê Quang Xghiêm và Tín ngưởng và cổ tục tôn thờ

thần linh biển cả tại Binh Thuận của Lê Hữu Lễ, khảo tả

một vài tín ngưỡng và tục lệ tiêu biểu của cư dân vùng

biển hai tỉnh thuộc Xam Trung Bộ. Đặc biệt, Đặc khảo về

dãn nhạc Việt N am của Phạm Duy, một chuyên khảo về

âm nhạc dân gian, cũng đề cập đến tín ngưỡng thờ cá voi

của dân biển với tư cách là một yếu tô" sinh thành ra thể

loại dân ca nghi lễ - hát Bá trạo.

Sau năm 1975 đến nay, việc nghiên cứu văn hoá của

cư dân ven biển được chú ý nhiều hơn. Trước hết là một sô"

công trình nghiên cứu về các lĩnh vực đòi sông văn hoá vật

chất và tinh thần, trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng của cư

dân ven biển. Một sô" công trình tiêu biểu ra đòi vào thập

niên 80, 90 của thê" kỷ XX như: Văn hoá dãn gian của

người Việt ở N am Bộ của nhóm tác giả Thạch Phương, Hồ

Lê, Huỳnh Lứa, Xguyễn Quang Vinh; 60 lễ hội truyền

- 9 -

thống của Thạch Phương và Lê Trung Vũ; Văn hoá dân

gian N am Bộ - Những phác thảo của Xguyễn Phương

Thảo; Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt N am của Xguyễn

Minh San; Tín ngưỡng dân gian H uế của. Trần Đại Vinh;

Tục thờ thần ở H u ế cxxa Huỳnh Đình Kết; Huế- Lễ hội dân

gian của Tôn Thất Bình... X"hìn chung, các tác phẩm này

đều chú trọng nghiên cứu tục thờ cá voi của cư dân ven

biển phía X"am dưới góc nhìn văn hoá tâm linh, và đã có

những lý giải thấu đáo, thuyết phục.

Vài năm cuối th ế kỷ XX xuất hiện thêm một số công

trình nghiên cứu về văn hoá và sinh hoạt văn hoá tín

ngưỡng của cư dân ven biển từ góc nhìn tổng thể. Đó là:

Văn hoá dân gian làng ven biển và Tín ngưỡng và văn hoá

tín ngưỡng ở Việt Nam do GS.TS. Xgô Đức Thịnh chủ biên;

Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam của TS. Xguyễn Duy

Thiệu; Cộng đồng ngư dân Việt ở N am Bộ do TS. Trần

Hồng Liên chủ biên; Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa￾Vũng Tàu của Đinh Văn Hạnh và Phan An; Lễ hội dân

gian ở Nam Bộ của TS. Huỳnh Quốc Thắng... Các công

trình nghiên cứu này đã bước đầu nhận diện và làm sáng

tỏ một sô" vấn đề về đời sống văn hoá tín ngưỡng của cư

dân ven biển Bắc Bộ và Xam Bộ; đã chỉ ra một sô" giá trị từ

trong một sô" hình thái tín ngưỡng của họ. Tuy nhiên, vì

mang tính chất nghiên cứu nên ở một vài công trình, các

sự kiện và tư liệu chỉ là sự kê" thừa.

TÍN NGƯÕNG Cư DÃN VEN BlỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẲNG

- 1 □ -

Tín ngưỡng thò cúng cá voi cũng như một vài hình

thức thò cúng khác của cư dân ven biển cũng đã trỏ thành

đề tài nghiên cứu của luận ván Đại học và trên Đại học.

Xăm 1996, Bùi Trung Thành bảo vệ khoá luận tôt nghiệp

đại học, chuyên ngành văn hoá Đông Xam A với đề tài:

"Bước đầu tim hiếu về tục thờ cúng cá Ong ở xã cần

Thạnh, huyện cần Giờ, Thành phô' Hồ Chí Minh", năm

1997, Xguyễn Xuân Hương bảo vệ luận văn Thạc sĩ văn

hoá với đề tài: "Tục thờ cúng cá Ong của ngư dân vùng

biển Quảng Nam - Đà Nang"; Cao Đức Hải cũng bảo vệ

luận văn Thạc sĩ văn hoá vói đề tài: "Tín ngưỡng thờ thuỷ

thần của ngư dân vùng cực đông Trung Bộ"; năm 1995, tác

giả Xguyễn Chí Bền bảo vệ luận án Tiến sĩ "Tim hiểu một

sô m ặt văn hoá truyền thống ở Bến Tre", trong đó có một

chương nghiên cứu về tín ngưỡng thò cá voi của cư dân ven

biển; năm 1996, tác giả Huỳnh Văn Tới bảo vệ luận án

Tiến sĩ "Những sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng - dân gian

của người Việt ở Đồng Nai", luận án cũng có một mục

nghiên cứu về tục thờ cá voi; năm 2003, tác giả Xguyễn

Đăng Vũ bảo vệ luận án Tiến sĩ; "Văn hoá dân gian của cư

dân ven biển Quảng Ngãi", trong đó có nghiên cứu một vài

hình thái tín ngưỡng của cư dân biển, với tư cách là thành

tô" của văn hoá dân gian.

Ngoài những công trình ấn bản thành sách nêu trên,

từ sau năm 1975, trên các tạp chí Trung ương và địa

phương, trong các kỷ yếu khoa học, cũng có nhiều bài viết

1 1

đề cập đến đời sông tín ngưỡng của cư dân ven biển ỏ một

sô" địa phương. Tiêu biểu như: "Một sô' tín ngưỡng, tục lệ

của cư dân vùng biển tư Binh Trị Thiên đến Binh Thuận"

(Tôn Thất Bình), "Sinh hoạt của ngư dãn miền biến Nghệ

Tinh trước cách mạng qua tục ngữ dân ca" (Ninh Viết

Giao), "Vàỉ nét về văn hoá truyền thống của cư dẫn vùng

biển Quảng Binh" (Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Tú), "Tục

thờ cúng cá voi - một biểu hiện đặc thủ của văn hoá biển

miền Trung" (Nguyễn Phước Bảo Đàn), "Tục thờ cá voi ở

các làng biển từ đèo Ngang đến đèo Hải Văn" (Trần

Hoàng), "Tục thờ cá ô n g ở cần Thạnh (Cần Giờ) và ven

biển N am Bộ" (Nguyễn Thanh Lợi), "Bước đầu tìm hiểu

loại hình múa hát bả trạo ở Thuận Hải" (Đình Hy), "Điều

lệ vạn: Tư liệu quý của ngư dân vạn chài ở tỉnh Binh

Thuận" (Đĩrửv Hy), "Lễ hội cầu ngư làng Trường Tây, Vĩnh

Nguyên" (Lê Đình Chi)...

ở phạm vi hẹp - địa bàn Quảng Nam và Đà Nang,

việc nghiên cứu văn hoá - tín ngưỡng của cư dân ven biển,

tuy đã được chú ý, song còn thưa kết quả. Kể từ bài viết

đầu tiên của Tôn Thất Bình: "Hát Bả trạo ở Quảng N am và

Đà Nang" vào năm 1985 đến các bài viết sau này, thì

khoảng cách thòi gian trên cả chục năm. Đó là: "Lễ hội cá

Ông ở Quảng Nam - Đà Nang" (Đoàn Tuấn Anh), "Hát Bả

trạo ở Quảng N am - Đà Nang" (Võ Văn Thắng), "Lễ hội

truyền thống các dân tộc miền Trung" (Nguyễn Hồng Sơn),

"Tục thờ cúng cá ông của dân biển Quảng Nam - Đà Nang"

TIN NGƯỠNG Cư DÂN VEN BIỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

- 1 2 -

(T/rỉ^ ề

(Xguyễn Xuân Hương), "Lễ hội cầu ngư của cư dân vùng

biển Quảng Nam- Đà Nang" (Xguvễn Xuân Hương), "Hát

Bã trạo ở Quảng Nam- Đà Nang" (Xguyễn Xuân Hương),

"Lễ Tống ôn của cư dân ven biến xứ Quảng” (X^guyễn Xuân

Hương), "Một sô nghi lễ liên quan đến nghề biển của cư dân

ven biến xứ Quảng" (Xguyễn Xuân Hương), "Những kiêng

ky của cư dân ven biên xứ Quảng" (Xguyễn Xuân Hương),

"Hò đưa linh trong lễ tang của dân biên Đà Nang" (X^guyễn

Xuân Hương), "Vế tín ngưởng thờ Mẩu của cư dân ven biển

xứ Quảng” (Xguyễn Xuân Hương)... Bước sang kỷ nguyên

mới, trong năm đầu của thế kỷ XXI, có thêm hai tác phẩm:

Công cụ đánh bắt sông nước truyền thống ở Hội An của Chi

hội Vãn nghệ Dân gian Hội An và Văn học dân gian Quảng

N am - miền biến của Xguyễn Vàn Bổn. Hầu hết các tác

phẩm này chưa có cái nhìn toàn diện về đời sống văn hoá

tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng X"am - Đà X"ẵng, và

phần lớn cũng chỉ nghiên cứu về sự thờ cúng cá voi ở địa

phương, với các hành vi tín ngưỡng, như: kiêng kỵ, tang

chế, lễ hội, và hát thờ.

Xhìn lại tình hình nghiên cứu văn hoá, trong đó có

lĩnh vực tín ngưỡng dân gian của, cư dân ven biển nước ta

nói chung và cư dân ven biển Quảng Xam và Đà x ẵn g nói

riêng, tuy đã đạt được một số thành tựu, nhưng so với việc

nghiên cứu tín ngưỡng cư dân nông nghiệp, thấy vẫn còn

khiêm tốn. Riêng lĩnh vực tín ngưỡng và văn hoá tín

ngưỡng, có thế nói, cho đến nay, chưa có một chuyên luận

- 1 3 -

nào dành riêng nghiên cứu các hình thái tín ngưỡng cơ bán

của cộng đồng cư dân ven biển, nhất là nghiên cứu ỏ một

địa chỉ cụ thể thuộc vùng biển Xam Trung Bộ.

Trên cơ sơ kế thừa và phát triển những gợi ý, luận

điểm hết sức hữu ích từ một sô" công trình và bài viết đã nêu

trên, chúng tôi nghiên cứu các hình thái tín ngưởng cơ bản

của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Năng trên hai bình

diện: hệ thống và chức năng, với các nội dung: hình thái tín

ngưỡng, đặc trưng tín ngưỡng và giá trị của tín ngưỡng.

Với các nội dung nghiên cứu xác định trên, công trình

"Tín ngưởng cư dàn ven biển Quảng N am - Đà Nang" mong

muốn cung cấp cho giới nghiên cứu những tư liệu và thông

tin về diện mạo và sinh hoạt tín ngưỡng trong đòi sông của

cộng đồng cư dân ven biển Quảng Xam - Đà xẵng, về

những đặc trưng cơ bản, những giá trị hàm chứa trong các

hình thái tín ngưỡng truyền thống đó,..., đặc biệt là về vai

trò, tính chất của các sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá trong

đời sốhg tinh thần hiện nay của cư dân. Qua đó, chúng tôi

cũng muôn góp một cách nhìn đối với văn hoá tín ngưỡng

của cư dân ven biển nước ta, trong đó có Quảng Xam - Đà

xẵng. Từ những kết quả nghiên cứu của công trình, chúng

tôi còn hy vọng có thể giúp các nhà quản lý và hoạch định

chính sách ở Quảng Xam - Đà xẵng nói riêng, các vùng đất

cư dân ven biển nói chung xâv dựng những luận cứ cho các

chương trình phát triển kinh tê - văn hoá - xã hội.

TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BlỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẰNG

- 1 4 -

Có thể sẽ có những thắc mắc về cách diễn đạt phạm

vi khảo cứu của công trình. Theo đó, Quảng Xam và Đà

x ẵn g được xem là một đơn vị - địa bàn khảo sát, mà thực

tế hiện nay lại là hai đơn vị hành chính riêng: thành phố

Đà x ẵn g trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Xam. Thực

ra. việc thay đối các đơn vị hành chính, nhập, tách địa

phương là do yêu cầu về m ặt quản lý và phát triển kinh tế;

còn nhìn từ phương diện văn hoá thì không hẳn phải như

vậy. Trong lịch sử hình thành, trong tâm thức cũng như

văn hoá của cư dân, Quảng Xam và Đà x ẵn g luôn gắn bó

mật thiêt với nhau. Xét vê mặt văn hoá, hai đơn vị này lả

một vùng đất thông nhất trong diễn trình lịch sử văn hoá

dân tộc; là không gian tồn tại thống nhất trong sinh hoạt

tín ngưỡng và văn hoá của cư dân ven biển vùng này.

Công trình này gồm bô"n chương:

- Chương 1: Quảng Nam - Đà Nang và cộng đồng cư

dân ven biến Quảng N am - Đà Nang

- Chương 2: Tín ngưỡng thờ cá voi

- Chương 3: Tín ngưởng thờ Mẩu, thờ âm linh và thờ

Tiền hiền

- Chương 4: Những đặc trưng và giá trị trong tín

ngưởng của cư dân ven biến Quảng Nam - Đà Nang

Xhân dịp Tín ngưởng cư dân ven biến Quảng Nam -

Đà Nang được xuất bản, xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!