Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk
PREMIUM
Số trang
127
Kích thước
3.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1280

Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

PHẠM THỌ DƯỢC

THỰC TRẠNG NHIỄM HIV, BỆNH LAO AFB (+) VÀ

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP

DỰ PHÒNG Ở NHÓM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY

TẠI TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Bùi Đức Dương

2. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Yến

HÀ NỘI - 2014

2

ĐẶT VẤN ĐỀ

HIV/AIDS và bệnh lao là hai vấn đề y tế công cộng quan trọng đã và

đang được quan tâm trên toàn thế giới. Mặc dù hai bệnh này có tác nhân gây

bệnh, cơ chế lây truyền cũng như nhóm đối tượng nguy cơ khác nhau, nhưng

đã tác động tương tác làm tăng gánh nặng bệnh tật ở nhiều quốc gia trên thế

giới. HIV đã làm cho chiến lược phòng chống bệnh lao ở nhiều quốc gia bị

thất bại và ngược lại, bệnh lao là nguyên nhân chính gây tử vong ở nhóm

người nhiễm HIV [115].

Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012 có khoảng

một phần ba trong số 34 triệu người nhiễm HIV trên toàn thế giới bị mắc lao

[115]. Năm 2011, ước tính 8,7 triệu người mắc bệnh lao và 1,1 triệu người

(13%) nhiễm HIV mắc lao mới; 1,4 triệu người tử vong vì bệnh lao, trong đó

ước tính 430.000 triệu người (24%) đồng nhiễm HIV [89], [113]. Bệnh lao

luôn đồng hành với tình trạng nhiễm HIV, là một trong những bệnh nhiễm

trùng cơ hội. Trên 30% số người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao 21

- 34 lần so với người không nhiễm HIV và gần 50% số người nhiễm

HIV/AIDS bị chết do lao [71], [115].

Việt Nam, mặc dù có những cam kết mạnh mẽ và triển khai các chương

trình dự phòng, nhưng sự lan truyền của HIV vẫn còn phức tạp, nhất là ở các

nhóm quần thể có hành vi nguy cơ cao. Số liệu thống kê của Bộ Y tế, kể từ

khi phát hiện trường hợp HIV đầu tiên năm 1990 cho đến 31/12/2012, số

trường hợp hiện còn sống: nhiễm HIV là 208.866, bệnh nhân AIDS là 59.839

và đã tử vong do AIDS là 62.183 trường hợp. Số liệu giám sát trọng điểm, tỷ

lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là 13,4% (2011) và 11,6%

(2012), hiện vẫn là nhóm nguy cơ cao lây truyền HIV [8], [10], [14]. Bên

cạnh HIV, bệnh lao vẫn còn là gánh nặng về sức khỏe, y tế và xã hội. Theo số

liệu điều tra của Dự án phòng, chống lao quốc gia, trên 40% dân số Việt Nam

bị nhiễm lao. Việt Nam xếp thứ 12 trong 22 nước có số lượng bệnh nhân

(BN) lao cao nhất thế giới và thứ 14 trong 27 nước có lao đa kháng và siêu

3

kháng cao [89]. Hàng năm ước tính có thêm 180.000 BN lao, trong đó có

khoảng 6.000 BN lao đa kháng và khoảng 7.400 BN HIV/lao. Tuy nhiên

chúng ta mới chỉ phát hiện được khoảng 60% số BN ước tính trong khoảng

trên dưới 100.000 BN mỗi năm [3], [6].

Khu vực Tây Nguyên gồm tỉnh Đắc Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon

Tum năm 1993 phát hiện 5 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên, đến 31/12/2012,

số trường hợp hiện nhiễm HIV là 3.395 trường hợp, bệnh nhân AIDS là 1.400

và 765 trường hợp đã tử vong do AIDS. Phân bố HIV trên nhóm NCMT là

38,2% (2011), 37,6% (2012) phân bố BN lao nhiễm HIV là 3,5% (2011),

3,4% (2012) [17], [37].

Đắk Lắk là một tỉnh miền núi cao nguyên trung phần, cũng hội đủ và

tiềm ẩn các đặc điểm về HIV và bệnh lao trên người nhiễm HIV. Lũy tích từ

1993 đến 31/12/2012 ghi nhận số trường hợp nhiễm HIV còn sống được báo

cáo là 1.520 người, trong đó 623 người chuyển sang AIDS và 351 người đã tử

vong do AIDS. Phân bố nhiễm HIV trên nhóm đối tượng NCMT là 43,55%,

BN lao là 3,1% [17], [35].

Các yếu tố liên quan tới nhiễm HIV và bệnh lao có sự tương tác qua lại

giữa 2 tình trạng bệnh này. Nhiễm HIV làm cơ thể bị suy giảm miễn dịch, suy

giảm miễn dịch dễ bị nhiễm và mắc bệnh lao [58], đặc biệt ở các đối tượng có

nguy cơ cao. Xác định được các yếu tố liên quan là cơ sở khoa học để đưa ra

bằng chứng cho công tác xây dựng kế hoạch dự phòng và khống chế đại dịch

HIV/AIDS cũng như bệnh lao phù hợp với bối cảnh của từng địa phương và

từng quốc gia. Để có được bức tranh tổng thể về hai vấn đề sức khỏe cộng

cộng, đồng thời với sự can thiệp chủ động, nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc và tử

vong, điều quan trọng là hiểu rõ các yếu tố nguy cơ của nhóm đối tượng có

hành vi nguy cơ cao để đưa ra các biện pháp ưu tiên trong công tác can thiệp

dự phòng và phòng chống.

Trên cơ sở những kiến thức khoa học về HIV và bệnh lao mà các chiến

lược phòng, chống cũng như mô hình can thiệp được áp dụng, nhưng kết quả

cũng còn hạn chế do nhiều nguyên nhân như nguồn nhân lực, vật lực và sự

4

khó khăn trong tiếp cận, cũng như đặc thù riêng của địa phương với nhiều dân

tộc và trình độ kinh tế còn thấp. Hơn nữa, khu vực Tây Nguyên chưa có

nghiên cứu nào về HIV/lao trên nhóm NCMT, do vậy nghiên cứu “Thực trạng

nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở

nhóm NCMT tại tỉnh Đắk Lắk” được tiến hành với 3 mục tiêu sau:

1. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV và bệnh lao AFB (+) trong nhóm nghiện

chích ma túy ở tỉnh Đắk Lắk năm 2011.

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng đồng nhiễm HIV và lao

trên nhóm nghiện chích ma túy.

3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng cộng đồng nhằm hạn chế tình

trạng nhiễm HIV và lao trên nhóm nghiện chích ma túy giai đoạn 2011-

2012

5

Chương 1

TỔNG QUAN

1. Thực trạng HIV/AIDS và bệnh lao

1.1. Thực trạng HIV/AIDS

1.1.1. Khái niệm về HIV/AIDS

HIV là chữ viết tắt của tiếng Anh “Human Immunodeficiency Virus”

có nghĩa là (vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người). HIV khi xâm nhập vào

cơ thể gọi là người nhiễm HIV, mã số phân loại quốc tế ICD-10 là B20B24

[3], [117], gây ra tình trạng ức chế miễn dịch thứ phát do mất các tế bào

lympho T CD4+ (hỗ trợ). Các tế bào T hỗ trợ này bình thường trợ giúp cho cả

đáp ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào [117].

AIDS là chữ viết tắt bằng tiếng Anh “Acquired Inmunodeficiency

syndrome” có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do

nhiễm HIV. AIDS không phải là một bệnh mà là một hội chứng, AIDS là giai

đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Do hệ thống miễn dịch bị tổn thương, cơ

thể không tự bảo vệ trước những nhiễm trùng cơ hội hoặc biến đổi tế bào mà

một người bình thường có thể chống đỡ được [117].

1.1.2. Tác nhân gây bệnh

Hai loại HIV đã được biết, đó là HIV-1 và HIV-2. Trên thế giới HIV-1

là loại chiếm ưu thế, HIV-2 gặp chủ yếu ở Tây Phi. HIV-1 có thời gian ủ bệnh

ngắn, nguy cơ lây truyền cao hơn và bệnh diễn biến nặng hơn. Ở Việt Nam,

đã được xác định là nhóm vi rút HIV-1, chưa có ghi nhận sự hiện diện nhóm

HIV-2 [86].

Cấu trúc của HIV có đường kính 1/10.000nm được chia thành hai lớp

chính: Lớp vỏ là màng lipid, trên đó có gai nhú glycoprotein (GP), đặc biệt là

GP120 và GP41 có tính kháng nguyên cao. Lớp lõi có chứa một số thành

phần chính như: Protein lõi, men phiên mã ngược và ARN là vật liệu di

truyền của HIV [81].

6

1.1.3. Sự lan truyền

HIV lây truyền qua ba con đường: Tình dục, đường máu và mẹ truyền

sang con lúc mang thai, khi sinh hoặc khi cho con bú [113].

1.1.3.1. Đường tình dục

Vi rút HIV có nhiều trong chất dịch sinh dục. Do vậy, vi rút có thể xâm

nhập vào máu qua cơ quan sinh dục. Việc sinh hoạt tình dục, dù có giao hợp

hay chỉ tiếp xúc với cơ quan sinh dục, đều dẫn đến nguy cơ lây nhiễm. Giao

hợp dương vật - hậu môn dễ làm lây HIV nhất, vì hậu môn và trực tràng

không có dịch trơn như âm đạo nên rất dễ xây xát, khiến HIV dễ dàng truyền

từ người này sang người khác [14].

1.1.3.2. Đường máu

Vi rút HIV có nhiều ở trong máu nên tiêm chích ma túy (TCMT) có

nguy cơ nhiễm HIV cao hơn người khác là do nhiều khi họ dùng chung bơm

kim (BKT) với nhóm bạn bè hoặc tại điểm bán thuốc nghiện. Những nghiên

cứu tại các quốc gia trên thế giới cho thấy nhóm đối tượng nghiện chích ma

túy (NCMT) luôn có tỷ lệ nhiễm HIV cao do những hành vi không an toàn

như sử dụng chung BKT, quan hệ tình dục (QHTD) bừa bãi. Một nghiên cứu

của Venkatesan Chakrapani ở Ấn Độ công bố vào năm 2011 trên nhóm đối

tượng NCMT cho kết quả có đến 38% nhiễm HIV, 33,3% sử dụng chung

BKT. Nghiên cứu cũng cho biết những yếu tố liên quan đến hành vi sử dụng

chung BKT như là ngại đến các nhà thuốc để mua BKT, tỷ lệ bao phủ của

chương trình cung cấp BKT sạch miễn phí còn thấp, không có sẵn BKT trong

nhà tù, trại cải tạo, sợ công an và các chương trình phòng, chống ma túy phát

hiện là người nghiện [14], [25], [52].

Truyền máu là tiếp nhận một lượng máu lớn vào cơ thể người nhận, do

đó nếu nhận máu của người nhiễm HIV, thì chắc chắn bị lây nhiễm. Nước ta

quy định bắt buộc xét nghiệm các đơn vị máu và loại bỏ máu có HIV .

1.1.3.3. Mẹ truyền sang con

Cứ một trăm phụ nữ nhiễm HIV sinh con, có khoảng 25-30 trẻ bị

nhiễm. HIV có thể lây sang bào thai qua nhau thai khi trẻ còn ở trong bụng

7

mẹ, qua máu và chất dịch của mẹ khi sinh, hoặc qua sữa mẹ khi mẹ cho con

bú. Trẻ sơ sinh nhiễm HIV thường không sống được quá ba năm [14].

Phụ nữ nhiễm HIV cũng có nhu cầu thiên chức làm mẹ, đó là chưa kể

mong muốn của người chồng và những người thân khác trong gia đình, hơn

nữa khả năng lây nhiễm không phải là 100%. Do đó, chính người phụ nữ cùng

chồng mình là những người quyết định có sinh con hay không [9], [14].

1.1.4. Diễn biến HIV/AIDS trên thế giới

Kể từ khi phát hiện HIV đầu tiên trên thế giới (1981), có thể chia đại

dịch HIV/AIDS thành 3 giai đoạn sau [27]:

1.1.4.1. Thời kỳ yên lặng

Năm 1981, lần đầu tiên một bệnh mới có tên là Hội chứng suy giảm

miễn dịch mắc phải, hay còn gọi là AIDS, đã được phát hiện trong số những

người đàn ông đồng tình luyến ái tại Mỹ. Vào năm 1983, tác nhân gây bệnh là

vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người nhiễm HIV đã được nhận dạng. Có

nhiều bằng chứng cho rằng thời gian ủ bệnh trung bình từ 8-10 năm, nên HIV

đã “yên lặng” trong khoảng thời gian ủ bệnh. Như vậy HIV đã xâm nhiễm con

người từ thập kỷ 70 về trước của thế kỷ XX và hoàn toàn nằm ngoài sự quan

tâm chú ý của y học [3], [27].

1.1.4.2. Thời kỳ phát hiện AIDS (1981 – 1985)

Những trường hợp AIDS đầu tiên vào năm 1981 được ghi nhận mở đầu

cho thời kỳ thứ hai của lịch sử AIDS. Trong thời kỳ này, phương thức lây

truyền bệnh đã được xác định, vi rút đã được phân lập, kỹ thuật xét nghiệm

phát hiện kháng thể HIV trong máu đã được phát triển.

1.1.4.3. Thời kỳ động viên toàn thế giới chống AIDS

Từ năm 1985 đến nay, xuất phát từ tình hình quốc tế không ổn định về

AIDS, vào đầu năm 1986 một đánh giá về tỷ lệ nhiễm HIV và số trường hợp

AIDS cho thấy ở các nước đang phát triển thiếu khả năng kỹ thuật để đánh giá

phạm vi lây nhiễm HIV/AIDS ... WHO thấy cần thiết phải hướng dẫn và phối

hợp các hoạt động y tế quốc tế trong phòng AIDS. Chương trình phòng chống

HIV/AIDS toàn cầu đã được thành lập ngày 1/2/1987 với 3 mục tiêu [111] là

8

(1) Phòng nhiễm HIV. (2) Giảm ảnh hưởng cá nhân và xã hội của nhiễm HIV

và (3) Hợp nhất các quốc gia và quốc tế chống AIDS.

1.1.5. Tình hình HIV/AIDS

Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của đại dịch HIV/AIDS, tháng

12/1994 Chương trình liên hiệp phòng, chống AIDS (UNAIDS) được thành

lập với sự tham gia của WHO, Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ

chức văn hóa khoa học – Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO), Quỹ dân số

thế giới (UNPPA), Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) và

Ngân hàng thế giới (WB) [106], [111].

1.1.5.1. Tình hình HIV/AIDS trên thế giới

Mặc dù có những nỗ lực toàn cầu trong phòng chống HIV/AIDS, song

HIV/AIDS vẫn không ngừng tăng cả về mức độ lẫn quy mô lan rộng. Theo

thống kê của WHO ghi nhận trong năm 2011, số nhiễm mới HIV là 2,5 (2,2-

2,8) triệu người nâng tổng số người hiện nhiễm là 34 (31,4-35,9) triệu người.

Trong đó số nhiễm mới ở trẻ em < 15 tuổi là 330 ngàn (280-390 ngàn) người,

nâng số trẻ < 15 tuổi hiện nhiễm HIV lên 3,3 (3,1-3,8) triệu. Số tử vong liên

quan đến AIDS trong năm 2011 là 1,7 (1,5-1,9) triệu người, trong đó số tử

vong ở trẻ < 15 tuổi là 230.000 (200.000-270.000) [113]. Như vậy HIV/AIDS

vẫn là vấn đề YTCC nặng nề [106].

Bản đồ 1.1. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trên thế giới, 2011

9

1.1.5.2. Tình hình HIV/AIDS ở Việt Nam

Thời kỳ đầu tiên (1990 – 1993): Dịch HIV chỉ được phát hiện ở một số

tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung những tỉnh/thành phố lớn, dân cư đông, có

nhiều điểm du lịch và các dịch vụ giải trí, với số nhiễm HIV được phát hiện

dưới 1.500 trường hợp mỗi năm.

Thời kỳ từ 1994 – 1998: Đại dịch HIV lan ra toàn quốc với số nhiễm

HIV được phát hiện mỗi năm là khoảng 5.000 trường hợp và chủ yếu tập

trung ở các đối tượng có hành vi nguy cơ cao.

Thời kỳ từ năm 1999 đến nay: Xu hướng dịch HIV đã và đang lan ra

cộng đồng với số lượng nhiễm HIV được phát hiện mỗi năm từ 15.000 –

16.000 trường hợp.

Sự gia tăng nhanh chóng dịch HIV trong nhóm phụ nữ mại dâm

(PNMD) ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vào những năm 1997 (24%) và giảm

xuống 15% vào năm 2002, trong khi tỷ lệ nhiễm HIV ở PNMD toàn quốc tuy

vẫn ở mức 5%. Tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm phụ nữ mang thai trước sinh ở Việt

Nam đã tăng gấp 3 lần từ năm 1998 tới năm 2002 (từ 0,09% và 0,28%) [20],

[103]. Theo ước tính và dự báo về HIV/AIDS tại Việt Nam 2007 - 2012, tỷ lệ

hiện nhiễm HIV ở người trưởng thành độ tuổi 15 - 49 ở mức 0,4% trong năm

2010, ước tính có tới 254.000 người nhiễm HIVtrong năm 2010 và con số này

sẽ lên đến 280.000 vào năm 2012. Dịch HIV/AIDS chủ yếu ảnh hưởng đến

nhóm dân số trưởng thành, ở độ tuổi 20-30 chiếm hơn 80% các trường

hợp được báo cáo. Đây là những người đóng góp lớn vào sản xuất kinh

tế. Phần lớn người nhiễm HIV là nam giới, chiếm 73% các trường hợp được

báo cáo trong năm 2009.

Sự gia tăng tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở Việt Nam là do hành vi tiêm chích

và tình dục không an toàn. Dịch HIV ở Việt Nam tập trung trên các quần thể

nghiện chích ma túy (NCMT), phụ nữ mại dâm (PNMD) và QHTD đồng giới

nam (MSM) và có một phần nhỏ đã lan ra công đồng dân cư, trẻ sơ sinh. Gần

đây, dịch HIV đã có dấu hiệu ổn định, đã được phản ánh trong xu hướng giảm

và ổn định về tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong các quần thể NCMT và PNMD.

10

Tính đến 30/06/2012, số nhiễm HIV hiện còn sống ở Việt Nam là

204.019 trường hợp, số BN AIDS hiện còn sống là 58.569 và 61.856 trường

hợp tử vong do AIDS [8], [10]. Theo báo cáo tổng kết 6 tháng đầu 2012 của

Cục phòng chống HIV/AIDS, nhiễm HIV theo đường lây truyền cho thấy:

qua đường tình dục chiếm tỷ lệ cao nhất 45,6%, tiếp đến là nhiễm HIV lây

truyền qua đường máu chiếm 41,9%, nhiễm HIV lây truyền từ mẹ sang con

chiếm 2,4%. Hình thái dịch phân bố theo đường lây truyền có sự khác biệt

giữa các vùng miền. Tại khu vực Miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc

Trung Bộ và Tây Nguyên lây nhiễm HIV qua đường máu vẫn chiếm chủ yếu

(trên 40% trong số trường hợp nhiễm HIV được báo cáo) [19]. Trong khi đó,

khu vực Duyên hải Miền Trung, Miền Đông Nam Bộ và đặc biệt là Đồng

bằng Sông Cửu Long, phần lớn các trường hợp lây nhiễm HIV do qua đường

tình dục, tỷ lệ lây nhiễm HIV qua đường tình dục khu vực Đồng bằng Sông

Cửu Long năm 2011 là 77% [10], [15], [26].

Kết quả giám sát phát hiện nhiễm HIV chủ yếu là người NCMT chiếm

37,5% và chiếm gần 1/2 tổng số các trường hợp nhiễm HIV được báo cáo.

Trong 4 năm trở lại đây tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm tình dục khác giới tăng

nhanh từ 8% năm 2007 lên 24,2% ở năm 2011 [14], [26]. Ở một số địa

phương không thuộc những tỉnh giám sát trọng điểm HIV thì tình trạng nhiễm

HIV trong các tỉnh này ở mức cao hơn trung bình cả nước và cảnh báo nguy

cơ gia tăng tình trạng nhiễm HIV ở những tỉnh này. Tỷ lệ nhiễm HIV trong

nhóm NCMT là 19,1% ở Vĩnh Phúc; 16,1% ở Ninh Bình; 15% ở Hà Nam. Tỷ

lệ nhiễm HIV trong nhóm PNMD là 10% ở Hà Nam; 4,5% ở Vĩnh Phúc. Điều

này có thể cảnh báo tình hình nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư và có nguy

cơ HIV hiện diện, tăng lên ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, những khu vực

khó tiếp cận dịch vụ y tế [8], [10], [28].

11

Biểu đồ 1.1. Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS và tử vong liên quan

đến HIV được báo cáo, 1993 – 2011

1.2. Thực trạng về bệnh lao

1.2.1. Một số khái niệm về bệnh lao

Bệnh lao phổi: Có các dấu hiệu như ho khạc kéo dài trên 2 tuần, sốt nhẹ

về chiều, ra mồ hôi “trộm”, gầy sút cân, ăn kém mệt mỏi, cũng có thể ho khạc

ra máu số lượng ít hoặc nhiều, đau ngực.

AFB (+): Có trực khuẩn kháng cồn, kháng toan trong đờm khi nhuộm

Zieht – Neelsen.

BK: Viết tắt của cụm từ Bacilie de Koch “Bệnh do trực khuẩn lao gây

nên, trực khuẩn lao do Robert Koch phát hiện (1882), còn được gọi là Bacilie

de Koch”.

Đồng nhiễm HIV/lao: Trên cùng một cá thể con người đều hiện diện vi

rút HIV và trực khuẩn lao.

1.2.2. Tác nhân gây bệnh

Tác nhân gây bệnh thuộc nhóm gây bệnh lao M. Tuberculosis thuộc chi

Mycobacterium, họ Mycobacteriaceae, bao gồm M. Tuberculosis, M. bovis,

12

M. microti, M. fricanum, M. canettii, và hai loài mới phát hiện gần đây là M.

pinnipedii và M. caprae. Tuy nhiên chỉ có M. Tuberculosis là tác nhân chủ

yếu gây bệnh ở người, M. fricanum, M. canettii cũng gây bệnh trên người

nhưng hiếm hơn, các loài còn lại thường gây bệnh trên động vật [43], [45],

[72].

1.2.3. Tình hình bệnh lao trên thế giới

Bệnh lao đang xuất hiện trở lại và cùng với đại dịch HIV/AIDS trở

thành một trong những căn nguyên gây mắc và tử vong chủ yếu, đặc biệt tại

các nước đang phát triển [66]. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 2,2 tỷ người

đã nhiễm lao (chiếm 1/3 dân số thế giới) 85% các trường hợp nhiễm mới này

xảy ra ở châu Phi. Trong đó, ước tính có khoảng một nửa triệu BN nhiễm

chủng lao kháng thuốc (MDR)-TB, tỷ lệ cao nhất ở khu vực Đông Âu [106].

Hiện nay, tỷ lệ điều trị thành công trên toàn cầu đạt 82%, nhưng tỷ lệ

phát hiện chỉ đạt 37% số BN ước tính. Như vậy, còn rất nhiều BN lao không

được chữa trị đang tiếp tục lây bệnh cho cộng đồng và theo ước tính của

WHO, mỗi năm có thêm 1% dân số thế giới bị mắc lao (65 triệu người). Hơn

33% số BN lao toàn cầu tại khu vực Đông-Nam Châu Á [89], [112], [114].

Bản đồ 1.2. Ước tính tỷ lệ mắc mới bệnh lao, 2011

Mức độ nặng nề của bệnh lao đã ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân và

chỉ số phát triển con người của các quốc gia. Các nghiên cứu về kinh tế y tế

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!