Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

THUẬT UỐNG TRÀ VÀ DƯỠNG SINH pptx
MIỄN PHÍ
Số trang
7
Kích thước
261.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1065

THUẬT UỐNG TRÀ VÀ DƯỠNG SINH pptx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

THUẬT UỐNG TRÀ VÀ DƯỠNG SINH - phần 2

4. Chén trà

Hình dạng chén trà rất phong phú nhưng tựu trung bao gồm bốn loại: Xuân ẩm, Hạ ẩm, Thu ẩm

và Đông ẩm. Trời càng lạnh thì miệng chén càng hẹp; trời càng nóng thì miệng chén càng rộng.

Các chén trà truyền thống Đông phương không có quai cầm. Vương Hồng Sển (1971) cho biết

vào đời Khang Hy, để đáp ứng cho việc xuất cảng sang thị trường Âu châu, các nhà sản xuất đồ

sành sứ Trung Hoa mới bắt đầu chế thêm tay cầm cho các chén trà, gọi là tách (tr.295). Kích

thước, hình dạng và màu sắc chén trà thay đổi theo thời gian. Theo Phạm Đình Hổ (1998), sau

đời Khang Hy (1662-1722), người sành điệu bắt đầu sử dụng các chén nhỏ (tr.48). Sự việc này

cho thấy tầm ảnh hưởng lớn lao của trà Ô-long từ thời điểm đó. Căn cứ theo cách uống trà Ô￾long, trà thường được pha trong bình chu sa (gan gà). Các chén trà luôn nhỏ vì lượng trà chiếm

đến 1/3 dung tích của ấm. Màu nước men của tách trà ảnh hưởng nhiều trong việc thưởng lãm

trà. Lu Yu (1974) cho biết vào thời nhà Đường, các chén trà Yueh Chou được chuộng nhất vì

ánh màu lục của chén làm khởi sắc thêm màu của nước trà. Điều này rất tương phản với những

chén của các lò khác, khi chúng có khuynh hướng làm biến đổi màu sắc của nước trà. Chẳng

hạn như chén Hsing Chou có khuynh hướng làm nước trà có màu đỏ nhạt thành màu đỏ đậm;

chén Shou Chou có nước men màu vàng có khuynh hướng làm nước trà màu đỏ thành màu nâu

rỉ và chén Hung Chou có nước men màu nâu có khuynh hướng làm nước trà có ánh đen đậm

(tr.90-93). Các chén thủy tinh không được chuộng mấy vì tính dễ nứt, hoặc dễ vỡ của chúng,

mặc dù chúng rất thích hợp cho các loại thanh trà và bạch trà.

Tại Việt Nam, số lượng chén trong một bộ trà khác biệt tùy theo miền. Vương Hồng Sển (1993)

cho biết một bộ chén trà tại miền Bắc gồm có một chén tống và bốn chén quân. 'Tống' là từ biến

thể của 'tướng'- tên gọi một chén có dung tích lớn hơn chén thường, dùng để chuyên trà từ chiếc

ấm con rót vào. Tại miền Trung, số lượng chén quân giảm xuống còn ba, qua thành ngữ 'Nhất

tướng tam quân' (tr.55).

Chén 'Beni Annam', thế kỷ 16 (Stevenson &

Guy, tr.51)

Chén Nhật Ofuke, thế kỷ 17 (Stevenson &

Guy, tr.70)

Stevenson & Guy (1997) cho biết vào thế kỷ 16, nước ta từng xuất cảng sang Nhật Bản nhiều

kiểu chén trà. Trong số đó, Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật của dòng họ sứ quân Tokugawa ngày

nay còn bảo tồn một loại chén, tên gọi 'Beni Annam' (tr.51& tr.70). Việc chén trà Nhật Ofuke (hình

trên bên phải) có dạng như cùng khuôn đúc với kiểu chén 'Beni Annam' (hình trên bên trái), cho

thấy ảnh hưởng sâu đậm của nghệ thuật sành sứ nước ta vào nghệ thuật sành sứ của Nhật Bản.

5. Lò và ấm đun nước

Từ đời nhà Thanh trở đi, các nhà sản xuất Trung Hoa còn chế ra lò than và các ấm đồng để đun

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!