Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thơ Tú Xương
PREMIUM
Số trang
283
Kích thước
37.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1161

Thơ Tú Xương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TT TT-TV * ĐHQGHN

895.92212

ĐI-T(NG-C)

2008

V-G2

Nguyễn Tài Chat

Nguyễn Tài Cân

KHAO SAT

VÈ THO ĐINH NHẬT THẬN

QUA “THU DẠ LỮ HỎÀI NGÂM”

NHÀ XUẤT BÀN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

LỜI NÓ! ĐÀU

1/ MỘI trong hai đồng tác già cùa cuốn sách này là anh cả của tôi:

Nguvcn Tài Chắt, bác sĩ quân V, hy sinh trong thời kì Kháng chiến

chống Pháp. Xin nói rõ vì sao Anh tôi đã đi đến thơ Đinh Nhật

Thận. Khi nhỏ Anh học giỏi toàn diện, thi đỗ đầu ở cả cuối bậc

Tiểu học, ở cả cuối bậc Trung học phổ thông. Lên bậc Tú tài, Anh

lại được giải thưởng cá về Toán, cả về Sử trong kì thi Concours

généraỉ tuyển lựa học sinh xuất sắc trong loàn bộ khối Liên hiệp

Pháp bao gồm cả nước Pháp, cả các vừng thuộc địa Pháp.

Năm 1939, Anh được học bông đi du học Đại học ờ Pháp. Nhưng

rồi chiến tranh xẩy ra, nước Pháp hại trận. Ở quê lùng lại không

may cả bà nội tôi cả mẹ tôi bát đầu ốm nặng. Anh tôi bèn kiên

quyết từ bỏ suất học bổng đi Pháp và vào học Trường Y Hà Nội để

hy vọng có kiến thức cần thiết cho xã hội mà trước hết là cần thiết

cho việc chữa bệnh của Bà và Mẹ mình. Noi gưumg các lớp đàn

anh bậc thầy như Giáo sư Hoàn ọ, Xuân Hãn, Anh tôi cũng chủ

trương vừa đi sâu vào chuyên môn vừa quan lâm rộng đến nền văn

hóa dân lộc. Anh tôi học thêm cả chừ Hán, chữ Nôm. Moi dịp nghỉ

hè Anh tỏi đều về quê đi khắp các vùng lân cận, vừa góp phần

khám bệnh cho dân lcmíỊ, vừa tìm cách sưu tầm sách vở cổ hiện còn

lưu rải rác ở các dòng họ nổi tiếng.

2/ Do có chủ trươmg như vậy, Anh tôi may mắn đã có dịp tiếp xúc

được với dòng họ cụ Nghề Đinh Nhật Thận. Thấy Anh tôi một mặt

lo chăm sóc sức khoẻ cho người nhà, một mặt tỏ thái độ rất kính

cẩn khi bái yết nhà thờ, khi đi thắp hương viếng mộ cụ Nghè, ngoài

3

ra lại cồn hết sức quan tâm tìm hiểu đến cuộc đời và sự nghiệp của

vị danh nhân nổi tiếng toàn vùng này, dòng họ dần dần trở thành

quen thân, và coi Anh tôi như một người bạn của gia đình, có thể

tin cậy được. Cụ tộc trưởng đã mở hòm trao tặng cho Anh tôi một

bản THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM và một tập BẠCH MAO AM THI

LOẠI đều ở dạng do con cháu chép tay đế làm gia bào.

Anh tôi mừng và cảm động lắm. Sau khi cân nhắc, Anh tôi ị

chủ trương làm 3 việc:

- Phải viết một bài giới thiệu chung về nhà thơ Đinh Nhật

Thận, uốn nắn lại một vài chi tiết sai lầm đã được lung ra trên mặt

báo (như tên làng, năm sinh, năm mat v.v.) Dài này đã được háo

Thanh Nghị nhận in ở số báo ngày 14 tháng 3 dmrng lịch, năm

1944, từ trang 21 đến trang 23;

- Phải coi tập BẠCH MAO AM THI LOẠI như một tài sản

quốc gia: sau khi thuê chép lại một bản cho gia đình, phai đem bản

gốc hiến tặng lại Thư viện Tỉ ung ương, vì ngay Thư viện Trung

ương cũng chưa có. Tập ấy hiện nay được Thư viện Hán. Nôm bảo

quản, có ghi rõ do Nguyễn Tài Chất tặng và được thống ké vào tập

DI SẢN HÁN NÔM, ở mục 82, với kí hiệu là VHh. 217.

- Còn bản chép tay THƯ DẠ LỮ HOÀI NGÂM thì anh tôi giữ

lại, dùng làm cứ liệu gốc đế đổi chiếu kiếm tra các ban Hán Nôm

đã được in ra, như kiểm tra bản in không rõ nguồn gốc năm 1902,

đời Thành Thái, bản in nói là dựa theo cứ liệu cụ Nguyễn Hùm

Ninh, do Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề công bổ khoảng nơm 194 ì ở

cuốn TRONG 99 CHÓP NỦI;cũng như kiếm tra các bản in Quốc

ngữ in ờ Tri Tân, ở Văn đàn bảo giám v.v.

3/ Dựa vào sự giúp sức của cha tôi, các cậu tôi cũng như sự

giúp sức của một sổ các cụ Cử, cụ Tủ, cụ Đồ am hiéu Hán Nôm

4

đang còn sống vào thời đó. Anh lôi đã cố gắng vạch ra cho được

nhữny chữ nào đúng, những chừ nào sai và cố gắng cân nhắc cho

được xem thừ những dị ban nào nên ung hộ, những dị ban nào nên

gạt bỏ. Công việc có chỗ dề nhưng cũng có những chỗ rất khổ vì ỷ

kiến nhiều khi rất khác nhau giữa các vị cố vẩn. Anh tôi đã tự mình

lập hồ SƯ ghi chép rất cấn thận và nhiều lúc cũng đã giao cho tôi

ghi chép, vì tuy tôi là bậc em nhưng lúc bấy giờ tôi cũng đã có mật

vốn học vấn nhất định vù cũnq đã có bài viết đã được đăng bảo.

Tiếc rằng qua hơn mấv mươi năm chiến tranh tủ sách của chúng

tôi bị thai lục rất nhiều. May rằng về Đinh Nhật Thận một số hồ sơ

chính vẫn còn và trí nhớ về nhiều chuyên vẫn còn.

Khi viết về ban THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM dòng họ cụ Đinh

Nhật Thận đã tặng Anh tỏi, Anh tôi thường gọi nó là “ban chủng

tôi được tặng” bản chủng tôi hiện có hoặc “bản cùa N. Tài Chất

Nay Anh tỏi đã hy sinh, chúng tôi xin giữ lại cách gọi cuối cùng.

4/ Trong cuốn sách này cỏ hai phần chính:

- Phần đầu là phần nghiên cứa, bao gồm 3 chương:

* Chương ỉ: Chút ít tài liệu về tiểu sử tác giả THU DẠ LỪ

HOÀI NGẤM: ông Đinh Nhật Thận (1815 -1866) - do Nguyễn Tài

Chât viêt, đã đăng in ở Tạp chí Thanh Nghị;

* Chương II: Khảo sát về THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM - do

Nguyễn Tài Chất biên soạn, để lại di cảo, Nguyễn Tời Cân biên tập.

* Chương 111: Một vài cứ liệu và suy nghĩ bô sung - do

Nguyễn Tài cẩn viết thêm.

- Phần thứ hai là phần phụ lục, cung cấp tư liệu:

* Phụ lục 1: Phần Nôm và Hán bàn THU DẠ LỮ HOÀI

NGAM do N. Văn Đe sao chép í ừ tủ sách của cụ Nguyễn Hàm Ninh

và công bổ ở cuốn TRONG 99 CHÓP NÚI;

5

* Phụ lục II: Bán chép tay THƯ DẠ LỮ HOÀI NGÂM dòng

họ cụ Đinh Nhật Thận tặng Nguyễn Tài Chất;

* Phụ lục III: Bản THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM khắc mộc bản

in năm 1902 đời Thành Thái;

* Phụ lục IV: Bản BẠCH MAO AM THI LOẠI dòng họ cụ

Đinh Nhật Thận tặng Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Chất đã tặng

lại Thư viện Quốc gia; I

* Phụ lục V: Hai trang bút tích của Liệt sĩ Nguyễn Tài Chất

trong tập hồ sơ về công trình nghiên cứu THU DẠ LỮ HOÀI

NGAM.

* Phụ lục VI: Các bài thơ Hán Việt của cụ Đinh Nhật Thận

trong BẠCH MAO AM THI LOẠI

5/Cuốn sách này hoàn chỉnh được là do có sự ủng hộ cùa Viện Hán

Nôm, cho phép in photocopie lại tập BẠCH MAO AM THỈ LOẠI mà

bản sao của gia đình chúng tôi đã bị đê hỏng và sự giúp đỡ chí (ình

của Tiến sĩ Hoàng Thị Hồng cẩm trong quá trình tổ chức thực hiện

việc in photocopie đó. Cuốn sách này ra đời được lại còn nhờ ở sự

cung cấp tư liệu cùa bạn bè, đồng nghiệp như nhà ngoại giao Đinh

Nho Liêm thuộc dòng họ Đinh Nho ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, các nhà

nghiên cứu: Nguyễn Văn Sâm (Viện Việt học, CA, Mĩ), Phạm Hồnẹ

Quý, Lưu Chí Cường (Đại học dân tộc Quảng Tây Trung Quốc),

Đào Thái Tôn, Nguyễn Hữu Tưcmg (Viện Hán Nôm, Hừ Nội) và

Nguyên Tiến Đoàn (Thái Bình) v.v. Cuối cùng cũng là nhở có sự

khuyến khích hết lòng của ngành Hán Nôm Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn và của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà

Nội. Chúng tôi xin lay tư cách cá nhãn và xin thay mặt cả tác giả đã

quá cố, tỏ lời chân thành tri ân của chủng tôi.

Nguyễn Tài cẩn

6

PHẦN TH Ơ NHẤT

Chương I.

CHỦT ÍT TÀI LIỆU VÈ TIỀU s ử TÁC GIẢ “THU DẠ LỮ

HOẢI NGÂM”: ÔNG ĐINH NHẬT THẬN (1815-1866)

Nguyễn Tài Chất

Ông Đinh Nhật Thận, tự là Tử ủy, hiệu Bạch Mao Am, sinh

năm Ất Hợi (1815) /1/ tại xã Thanh Liêu /2/, huyện Thanh Chương,

tính Nghệ An, trên bờ sông Lam. Cụ thân sinh ra ông sinh hạ được

sáu trai. One là thứ hai. Bà thân là người bên Giáo.

Ông thụ giáo với cụ cống Thọ Nhạc (?) ở làng Đồng Loan

(cùng huyện Thanh Chương) và sau với cụ Trực học sĩ Nguyễn

Hữu Tố là một bậc danh sư lúc bấy giờ.

Lúc đi học ông đã nổi tiếng là thông minh. Năm 20 tuổi đậu tú tài.

Khoa sau, ông lại mang lều chiếu đi thi, khoa ấy là khoa Đinh

Dậu (1837). Ở trường Nghệ, chánh chủ khảo là Lâm Day Nghĩa,

tính vốn khắc nghiệt và không thích học trò Nghệ. Đáng lẽ mỗi

khoa lấy 22 cử nhân mà năm ấy chỉ đậu có 5 người. Đinh Nhật

Thận cũng chịu phận hỏng thi mà về. Các quyển đệ về kinh đô.

Vua phán “Đất Nghệ xưa nay nhiều nhân tài, sao năm nay đậu ít

quá. Vậy cho phép các tú tài cũng được vào thi hội”.

Khoa hội nhàm vào năm Mậu Tuất (1838), tức là năm Minh

Mạng thứ 19, Đinh Nhật Thận đậu Hội rồi vào thi Đình đậu đầu

trong hàng tiến sĩ và lại là người trẻ tuổi nhất trong bạn đồng

khoa /3/.

7

. Đậu xong, ông còn ở kinh để chào các quan. Có người muốn

thử tài ông, đố ông học thuộc một quyển tự điển. Ông không ngần

ngại, đem sách về và đến mai đọc suốt cho họ nghe /4/. Vì những

việc như thế, nên nhiều người biết tài của ông; và nhờ ở tài lỗi lạc

của ông mà ông kết giao với những bậc danh sĩ bấy giờ.

Nước ta về đời Gia Long, Minh Mệnh cuộc bình định vừa

xong, cho nên dân tình còn mến tiếc nhà Lê. Đến đời Thiệu Trị, Tự I

Đức mới thật là lúc thịnh trị, thái bình: chốn kinh đô mới là nơi họp

mặt anh tài ba xứ. Trong triều lúc ấy có hai thi phái: một bên là Thi

xã có các ngài Tùng thiện, Tuy lí, các ông Trương Đăng Quế,

Nguyễn Đăng Giai v.v... là phái được triều đình vì nể. Nhưne chưa

chắc đã được sĩ phu yêu mến phục bằng phái thứ hai của các ông

Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật

Thận. Có lẽ cũng vì thế mà tình thân ái giữa mấy ông sau này càng

thêm khăng khít cho nên trong mấy lâu họp mặt ở kinh, cùng nhau

ngâm ca xướng hoạ, họ đã sống những ngày vô cùng thoả thích.

Sau này, dầu Đinh Nhật Thận có vì bạn mà bị vạ lây, chắc ông

cũng nhớ thời giao du buổi trước mà không hề oán giận kẻ tri âm

lầm đường.

Cách ít lâu ông được bổ làm quan. Nhưng tính ông cương trực,

không chịu vòng cương toả. ông làm tri phủ chưa mấy chốc đã can

nghị phải về. Đen năm 1843, niên hiệu Thiệu Trị tam niên /5/ ông

lại được phục chức. Nhưng khi sắp ra nhậm chức mới, ông cáo

bệnh ở nhà. Từ đó ông nhất định từ giã quan trường, quyết về quê

vui hưởng điền viên lạc thú.

Ông lập một cái ấp gọi là ấp Gia Hội ờ giữa làng Thanh Liêu

và làng Tiên Hội. Ấp Gia Hội, trước mặt có sông Lam, sau lưng có

dãy núi, phong cảnh cực kì xinh đẹp. Ông mộ dân lập trại, làm cho

một khoảng đất hoang trở nên một xóm trù mật.

8

Ngày ngày, ông dạy học trò. rồi xem sách, nhất là sách thuốc.

Và thời bấy giờ ông nổi tiếng là một danh y trong vùng, cứu được

rất nhiều người và chừa được nhiều bệnh rất thần tình. Lúc thanh

nhàn, ông lại cưỡi ngựa đi chơi. Khi thấy bóng một người tóc bỏ

ngang vai, khăn nhiễu vấn cổ, cưỡi con ngựa bạch, là người trong

vùng biết ngay quan nghè Đinh.

Có khi ông ra Bắc vào nhà quan Án Siêu; hay vào kinh tìm

ông Ninh đế cùng họ ngâm vịnh. Và thường một mình đi xem

những nơi phong cảnh đẹp. Có lần ôníỉ đi qua đền Càn ở phía bắc

tỉnh Nghệ An là đền thờ một bà hoàng hậu và hai công chúa đời

nhà Tống bên Tàu, lạc sang nước Nam khi nhà Tống mất nước.

Đền uy vào hàng thiêng nhất ở vùng Nghệ Tĩnh. Ông liếc thấy câu

đối ngoài cột vôi:

Biện kinh nhất nhật thiên vổ Tống

Càn hái thiên niên Việt hữu thần

nghĩa là: Kinh Biện một ngày trời mất (nhà) Tống

Biển Càn nghìn năm (nước) Việt có thần

Câu đối chọi nhau từng chữ. ai cũng cho hay. Thế mà ông cười,

chê dốt, rồi lại lấy đá đập chữ đi, chê rằng:

“Nhà Tống bắt đầu đóng đô ở đất Biện, rồi dời sang đất Quảng,

đất Mân, đất Hàng. Khi dời đến đất Hàng mới mất nước và bà

hoàng hậu mới lạc sang nước ta. Vậy vế đầu của đôi câu đôi là sai.

Vả lại “nhất nhật” mà đối với “thiên niên” thì dư và lại non.”

Ông thay bàng hai câu:

Địa khí bắc nhi nam, Biện Quàng Mân Hàng quốc mạch

Thanh linh kim tự cổ, Cao Tào Hướng Mạnh gia phong

9

Câu này rất rõ nghĩa, Cao Tào Hướng Mạnh là bốn họ hay

phát Hoàng hậu ở bên Tàu.

Tuy đã “ngoài vòng cương toả” mà vẫn không được vên thân.

Năm Tự Đức thứ 7 (1854) “giặc” Châu chấu nổi lên ở Bắc Kì.

Người bạn ông là Cao Bá Quát lại làm quân sư cho “giặc”. Họ Cao

chẳng bao lâu bị bắt. Nhưng triều đình vẫn nghi ngờ người bạn của

kẻ nghịch.

Một hôm, Đinh Nhật Thận bồng bị bắt. Giải xuống tỉnh, họ

mới cho xem chứng cớ ông làm phản. Thì ra bức thư ông viết cho

một người bạn ở bên kia sông, mời sang đánh tổ tôm và mượn cỗ

bài luôn thể đã bị lính lệ bắt được:

Tứ tướng dĩ cụ

Chi khiếm nhất viên

Tương hách nhị binh

Độ hà kịch chiến /ố/

nghĩa là:

Bổn tướng đã sẵn

Chỉ thiếu một người

Đem quân trăm hai

Sang sông kịch chiến

Dầu ông có phân trần, họ cũng cứ giải ông vào kinh hỏi tội.

Trong khi ông còn bị giam cứu, bỗng thấy các quan rước ông

ra, mời ông uống rượu, ông không hiểu vì sao, nhưng vẫn điềm

nhiên cạn cốc. Thì ra vua bắt đình thần vịnh một bức chạm “long

ẩn long ám”. Các quan đệ lên gần 50 câu mà đều bị vua chê cả. Có

10

người nhớ tài mẫn tiệp cua Đinh Nhật Thận hiện bị tù, vội mời ông

nghĩ giùm. Ông đọc ngay:

Đại Thuấn thâm sơn nhật

Gia Cát thảo lư thần

ỉ)ệ lên ngự lãm, vua Dực Tôn tỏ ý rất phục tài. Vịnh “Long ấn

long ám” mà nói:

Đức đại Thuấn lúc ở chốn rừng sâu

Ông Gia Cát buổi náu nơi thảo dã

thì thật đã lột được hết tinh thần.

về sau ông lại chữa lành bà cụ thân sinh một vị đại thần nhờ

ông tinh y học. Vì thế mà chẳng bao lâu ông được khỏi tù. Nhưng

vẫn còn bị giữ lại ở kinh, chưa cho về nguyên quán.

Bài “Thu dạ lừ hoài ngâm” chính làm ra trong lúc ông bị

“giam lỏng” ở kinh đô. Cái buồn của kẻ xa nhà đã khiến ông viết

được nhiều câu tuyệt bút. Trong lúc bị giam lỏng ở Huế, trước cái

vè đẹp nhẹ nhàng của chốn Bình sơn Hương thủy, lòng ông lai láng

tình cố quận gia hương. Ông mới làm bài Thu dạ lữ hoài để tiêu

sầu giải muộn mà có lẽ cũng cố ý làm động lòng trắc ẩn đấng minh

quân / 7/.

Ông được tha về quê năm nào không rõ. Và từ đấy thoát hẳn

được ách công danh.

Ông mất năm Bính Dần (1866), niên hiệu Tự Đức thứ 19, vào

ngày 18 tháng 6 đúng vào giờ Tị /8/, thọ 52 tuổi.

Sau khi ông mất, gia quyến bỏ ấp Gia Hội, xuống ngụ ở làng

Thượng Thọ, xã Trung Lâm, tổng Võ Liệt, huyện Thanh Chương.

Ông sinh hạ được một trai tên là Đinh Nhật Điềm, tục gọi là

Cậu cả Vịnh, tính thảng thích, không theo khuôn sáo, giỏi đàn.

11

Cậu cả Vịnh sinh hạ được hai trai: Đinh Nhật Tình, mất sớm

và Đinh Nhật Tính tức là Đồ Tính - ông Đồ Tính hiện na) gần 70

tuổi, sinh hạ được hai trai: người lớn làm ruộng, còn người nhỏ còn

học chữ Hán.

Cảnh nhà ông Đồ Tính hiện thời thanh bạch lắm: một cái nhà

tranh nhỏ bé vào hạng nghèo nhất trong vùng, chia làm hai gian:

một gian làm nhà ở, một gian để thờ Cụ Nghè Đinh Nhật Thận. <

Bàn thờ là một cái án đã mục, một cái màn đã rách. Đe ahac lại

thời xưa, chỉ còn một cái biển đề “ân tứ vinh qui”.

Hiện nay mộ ông Đinh Nhật Thận ở Rú cối thuộc xã Đức

Nhuận. Nhà thờ ông ở làng Thượng Thọ xã Trung Lâm và lền thờ

ông ở ấp Gia Hội xã Thanh Liêu, cũng đều thuộc huyện Thanh

Chương, trên hữu ngạn sông Lam.

* * *

Trong các bậc tài hoa đất Lam giang, ông Đinh Nhật 'hận có

lẽ là lỗi lạc hơn cả.

Ông là tiêu biểu cho cái tính thảng thích, phóng túig của

người Nghệ Tĩnh, những người vẫn được tiếng là trọng kioa mà

khinh hoạn.

1/ Đây là căn cứ vào bài vị thờ ông. Trong quyển “Quốc triều khìa bàng

lục” của Cao Xuân Dục chép ông sinh năm Giáp Tuất (1814). Trong

quyển “Trong 99 chóp núr (Tân Việt xuất bản) chép ông sinh rùm Giáp

Tuất có lẽ cũng là căn cứ vào quyển “Quốc triều khoa bảng lục” Tường

nên theo bài vị mới đúng.

2/ Thanh Liêu chứ không phải Thanh Liêm như trong quyển “T'ong 99

chóp núĩ’ đã chép.

3/ Khoa Mậu Tuất, cộng chính phó bảng cả thảy đậu được 20 ngươi:

12

Hoàng giáp: 1. Nguyễn Cửu Trường (Thanh Hoá) 32 tuổi

2. Phạm Văn Nghị (Nam Định)............................................31 —

Tiến sĩ 1. Đinh Nhật Thận (Nghệ An) .........................................24 —

2. Pliạm Chân (Quảng Bình) ............................................... 35 —

3. Nguyễn Văn Tùng (Hà Nội) .............................................21 -

4. Lê Duy Trung (Hà Nội)................................................... 44 —

5. Trần Tiễn Thành (Thừa Thiên) sau này làm Phụ Chánh.... 26 —

6. Hoàng Trọng Trì (Thừa Thiên).........................................29 —

7. Lê Thiện Trị (Quảng Nam) ..............................................43 -

8. Doãn Khuê (Nam Định) .................................................. 26 --

Phó bảng 1. Nguyễn Tường Vĩnh (Quảng Nam)...........................40 —

2. Nguyễn Kim Vực (Quảnií Bình) ......................................34 --

3. Dương Công Bình (Hà Nội)............................................. 25 -

4'. Nguyễn Hữu Độ (Thanh Hóa) sau này cũng làm

Thượng thư ứiều Đồng khánh.........................................26 —

5. Lê Thúc Đôn (Bình Định)................................................ 35 -

6. Diệp Xuân Huyên (Hà Nội).............................................. 31 -

7. Nguyễn Văn Hạo (Quảng Nam)........................................32 —

8. Phan Quang Nhiệu (Hà Tĩnh)........................................... 37 -

9. Nguyễn Văn Siêu (Hà Nội) hiệu là Phương Đỉnh............. 43 —

10. Nguyễn Xuân Bang (Quảng Trị).....................................27 —

4/ Chuyện này chép trong “Quốc triều khoa bảng lục” của Cao xuân Dục.

5/ Ồng Đồ Tính nói ngài được phục chức đúng năm Thiệu Trị tam niên,

không biết có đúng không.

6/ ‘Trong 99 chóp núi” ông Đẩu tiếp chép hơi khác:

- Tứ tướng dĩ cụ

- Chi khiếm nhất viên

- Tương nhứt bách nhị ihập tinh binh

- Độ hà ỉai chiến

13

7/ Ai muốn rõ “Thu dạ lữ hoài ngâm”, xin xem sách “Trong 99 chóp núi”

của Đẩu tiếp Nguyễn Văn Đe, trong có:

- bản Hán văn

- bản dịch cổ

- bản dịch của Đẩu tiếp

Cách đây mấy năm, ông Bùi Vân Lăng ở Qui Nhon đã dịch ra chữ rây.

8/ Căn cứ vào bài vị của ông. I

Trong quyển “Trong 99 chóp núi’ chép ông sống ngoài bát tuần là sai.

(Đã in trong Thanh Nghị, số 14 tháng 3 năm 1944, trang 21—23)

Chú thích bổ sung của Nguyễn Tài cẩn:

1/ về dòng họ Đinh của cụ Đinh Nhật Thận, gần đây có người đang

đem liên hệ với họ Đinh Nho ờ Hương Sơn (của các cụ Iiliư Đinh

Nho Công (1637-1695), Đinh Nho Hoàn (1671-1716) Dinh Nho

Điển (1848 -?)) và với họ Đinh Văn ở Nghi Lộc (của các cụ như

Đinh Văn Chất (1847-1843), Đinh Văn Chấp (1893-?)). cần phải

nghiên cứu tiếp.

2/ Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh ờ Hương Sơn (có bài đăng

ở Nhân dân số 19/2/1995 và được giải thường của Hội Văn nghệ

dân gian) thì cụ Đinh Nhật Thận là chắt nội của Hầu đốc Lĩnh Đinh

Nho Côn, và là con thứ 6 của cụ Đinh Nho Công đậu tiến sĩ năm

1670. Chúng tôi nghĩ cần nghiên cứu tiếp vì cha con sao lại cách

nhau đến khoảng 2 thế ki: cụ Đinh Nho Công sinh năm 1637, mất

năm 1695 (thế kỉ XVII) còn cụ Đinh Nhật Thận thì sinh năm 1815,

mất năm 1866 (thế kỉ XIX)!

3/ Bài “May chưa bỏ hiền tài” của Trần Xuân in trong Tuần báo

Người Hà Nội số thứ bảy 10/6/1995 cũng nói về cụ Đinh Nhật

Thận. Nhưng vì tác giả chỉ dựa vào Đẩu tiếp Nguyễn Văn Đề, nên

nêu năm sinh, năm mất không đúng với bài vị ở nhà thờ và nêu tên

làng không đúng với thực tế địa phương.

14

Chương II.

KHẢO SÁT VÈ THU DẠ LỬ HOÀI NGÂM

- Nguyễn Tài Chất -

M ĐÓI CHIÉU BA BẢN THU DẠ L ữHOÀI NGÂM «

BẰNG HÁN VĂN

1/ Chúng tôi hiện có 3 bản THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM, bàng Hán

văn:

-Bản Trường Thịnh Đường tàng bản khác in mộc bản mùa

đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái, tức năm 1902. Chúng tôi gợi

tắt là bản 1902;

- Bàn Nguyễn Văn Đề công bố ở cuốn TRONG 99 CHÓP NÚI,

được Hà Xuân Tế đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Chúng

tôi gọi tát đấy là bản Nguyễn Văn Đe;

- Và bản chép tay chúng tôi được người cháu đích tôn nhà thơ

Đinh Nhật Thận trao tặng, từ nay chúng tôi là chủ sở hữu, là người

chịu trách nhiệm bảo quán: chúng tôi xin gọi là bản của N. Tài Chất.

Bản Nguyễn Văn Đề chép lại theo một bản tìm thấy trong tủ

sách của cụ Nguyễn Hàm Ninh là một người bạn chí thân cùa nhà

thơ Đinh Nhật Thận. Bản Nguyễn Tài Chất, theo cụ trường tộc cho

biết, là một trong các bản chép cổ dòng họ Đinh Nhật Thận giữ làm

gia bảo. Vậy hai bản này rất có khả năng gần nhất với nguyên tác.

Bản 1902 không rõ nguồn gốc nhưng đã được đem ra khắc

mộc bản để phổ biến, vậy chủng ta cũng phải coi đây là một tư liệu

cần đem ra để đối chiếu thêm.

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!