Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ngôn ngữ thơ tú xương.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
HỒ THỊ THANH TÂM
Ngôn ngữ thơ Tú Xương
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Nhà văn Nga XanTưKôp SêĐrin có nói rằng “ Văn học nằm ngoài những
định luật của băng hoại. Chỉmình nó không thừa nhận cái chết”.Thơ văn của
Tú Xương là như vậy, mặc dù Tú Xương cách chúng ta đến nay đã gần 104
năm. Nhưng sự nghiệp văn chương của Tú Xương thì vẫn bất chấp mọi thử
thách của thời gian, lăn mình về phía tương lai vô tận.
Tú Xương là nhà thơ điển hình của giai đoạn giao thời từ chế độ quân chủ
phong kiến tới chế độ thực dân nửa phong kiến-thời kỳ đặt nền móng cho nền
văn học thị dân cận đại. Ông là người có tài năng đặc biệt, nhưng tài năng của
ông không thích hợp với đòi hỏi của chế độ thi cử là chế độ từ bao thế kỉ vẫn
cứ rập theo một khuôn sáo cổ hủ .Trong cuộc đời 37 năm của mình Tú Xương
đã tự mỉa rằng “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”. Vừa say mê nhập
cuộc, vừa phải ứng lại khoa thi cử - điều này tạo nên sắc thái tự trào độc đáo
riêng có ở Tú Xương. Hay thơ ông là tiếng nói trữ tình trong cách cảm nhận
về thời thế, trong sự phân thân tạo nên tiếng cười bỡn cợt, bông đùa. Rồi khi
đã trở thành một nét tính cách, một phong cách thơ, ông càng trở nên nhạy
cảm với những mặt trái, những nghịch cảnh của đời sống thị thành đang bày
ra trước mắt.
Tú Xương có một phong cách viết thơ riêng đó là vận dụng ngữ ngôn
dân tộc như một nhà họa sỹ đại tài có đủ các vật liệu cần thiết để tạo nên màu
sắc và đường nét, mỗi bài thơ của Tú Xương là một bức tranh.Ở thơ Tú
Xương hầu như bài nào, câu nào,chữ nào cũng hay, cũng chỉnh làm nên sự hài
hòa, cân xứng không thể thay thế được.
Thơ của Tú Xương đạt đến đỉnh cao bậc nhất ở thời đại ông. Ông hầu như
hoàn toàn chỉ sáng tác thơ nôm và là người khẳng định triệt để giá trị và khả
3
năng to lớn của tiếng việt. Ông được người đời xưng tôn là bậc “thần thơ
thánh chữ”.
Đã hơn 1 thế kỷ nay nhà thơ của ngọn núi Non Côi và dòng sông Vị đã về
với cát bụi nhưng tiếng nói của ông, tiếng nói của thi ca, của trào phúng đạt
đến mực Chân -Thiện - Mỹ, vẫn còn vang mãi non sông đất Việt. Bằng ngôn
ngữ mang tính tự nhiên,giản dị, gần gũi, khi đọc lên thì dễ thuộc,Tú Xương
sáng tác những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài nghệ của ông mà sau này chỉ có
Nguyễn Bính sánh được, đây chính là điều khác biệt, là nét độc đáo hiếm có
và tạo nên thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời
cũng là một vấn đề thú vị, một mảnh đất huyền bí để khám phá và tìm hiểu.
Với mục đích muốn tìm hiểu thêm về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trong
những sáng tác của một cây bút đa tài, thần thơ thánh chữ, với những đóng
góp cho việc tìm hiểu để phục vụ cho nghiên cứu, và đặc biệt là trong giảng
dạy ở trường phổ thông. Chính vì những lý do trên, đã khiến chúng tôi chọn
đề tài: Ngôn ngữ thơ Tú Xương.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thơ Tú Xương là một hiện tượng văn học độc đáo, đánh dấu sự chuyển
mình mạnh mẽ từ các truyền thống văn học trung đại hướng về phía hiện đại,
là tiếng cười tố cáo, chế giễu các hiện tượng xấu xa, nhố nhăng của Xã hội
Việt Nam ở buổi giao thời trong hoàn cảnh thuộc địa, là tâm sự đau đớn của
một tri thức tài tình sinh bất phùng thời.
Chỉ để lại cho đời khoảng hơn 100 bài thơ nhưng Tú Xương xứng đáng
là một tác gia văn học lớn của thời kỳ trung đại Việt Nam, và hơn thế ông còn
được suy tôn là “nhà thơ thiên tài” (Trần Thanh Mại), là “bậc thần thơ thánh
chữ” (Nguyễn Công Hoan).
Với một vị trí như vậy, dĩ nhiên Tú Xương đã trở thành đối tượng cho
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học hướng tới. Cho đến nay cũng có đến
4
hàng trăm bài viết, hàng chục công trình lớn nhỏ tìm hiểu con người, sự
nghiệp thơ văn của nhà thơ trào phúng đặc sắc này và trong số đó cũng không
ít người đã gặt hái những thành công nhất định. Những công trình nghiên cứu
tiêu biểu như:
Trần Tế Xương – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. Đây là một
cuốn sách tập hợp rất nhiều bài viết, nhiều bài nghiên cứu về thơ Tú Xương
do Vũ Văn Sỹ - Đinh Minh Hằng - Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới
thiệu. Cuốn sách tập hợp những bài viết đặc sắc về thơ Tú Xương từ nhiều
khía cạnh, trong đó có nhiều bài viết đề cập đến cách sử dụng ngôn ngữ. Hay
như những ý kiến nhận xét của tác giả cuốn sách: “ Như mọi nhà văn nhà thơ
lớn khác, Tú Xương sử dụng ngôn ngữ của dân tộc hết sức tài tình. Cùng với
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến, Tú
Xương là một bậc thầy trong nghệ thuật vận dụng ngữ ngôn dân tộc. Ngữ
ngôn và hình tượng trong thơ ông là ngữ ngôn và hình tượng của dân gian,
của nhân dân dùng hằng ngày”[ 11 ,tr.215].
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra nhận xét về tài nghệ ngôn ngữ Tú
Xương là “nói về lối dùng chữ, hiệp vần thì Tú Xương phải được ví với một
thầy phù thủy sai khiến âm binh như sử dụng Quốc âm. Không cầu kì, không
khệnh khạng, ông đã làm giàu cho văn chương trào phúng nước nhà. Bằng cả
một kho từ ngữ bén nhạy, nhất là trạng từ và tính từ” [ 11, tr.237]. Bài viết
của tác giả đã tôn vinh thêm tài năng sử dụng từ ngữ của Tú Xương.
Ngoài tài năng vận dụng lời ăn tiếng nói của quần chúng, Tú Xương
còn để lại một dấu ấn mang tính đột phá trong cách sử dụng ngôn ngữ. Ta
thấy rằng đến Tú Xương tính uyên bác, sang trọng và kiểu cách của thơ cổ nói
chung đã mờ nhạt hẳn. Như lời nhận xét của Nguyễn Đình Chú với bài Tú
Xương, nhà thơ lớn của dân tộc in trong Tú Xương-thơ, lời bình và giai thoại:
5
Thơ Tú Xương là thứ thơ “không cần gấm hoa son phấn” là thứ thơ đến thẳng
từ cuộc đời “với tất cả cái sần sùi, cái xù xì của nó”[10,tr.189].
Hồ Giang Long (2006), Thi pháp thơ Tú Xương, Nxb Văn học. Đây là
một công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về thế giới nghệ thuật thơ của Tú
Xương đã vận dụng cách tiếp cận của thi pháp văn học hiện đại, tác giả đã
nêu lên những nhận xét khá mới mẻ và chắc chắn, táo bạo về quan niệm con
người trong thơ Tú Xương, về không gian, về giọng điệu và các phương thức
biểu hiện bao gồm các hình thức tu từ độc đáo. Khi bàn về ngôn ngữ thơ Tú
Xương thì Hồ Giang Long viết : “ lời ăn tiếng nói của quần chúng vang vọng
vào trong từng câu thơ của Tú Xương nhưng không vì thế mà làm lu mờ
những gì thuộc về riêng ông. Tài năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc đã khiến
cho thơ của tác giả trào phúng này có một chất giọng dân gian khó lẫn”[ 4,tr.
120].
Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam từ cuối thế kỷ XVIII – hết thế
kỷ XIX, Nxb Giáo dục có sự so sánh và đánh giá, nhận xét : “Nếu giai đoạn
trước Nguyễn Du đánh dấu sự phát triển của ngôn ngữ văn học vào ngôn ngữ
bình dân, vào lời ăn tiếng nói hằng ngày, vào ca dao, tục ngữ, và tạo ra được
một cách nhuần nhuyễn , hài hòa sự kết hợp giữa dòng bác học và dòng bình
dân trong ngôn ngữ thơ ca, thì với Tú Xương, ngôn ngữ gọi là “bác học”,
những từ ngữ chỉ chuyên làm thơ phú, chỉ sống trên sách vở chứ không phải
trong sự giao tế hằng ngày, được đưa ra khỏi thơ ca. Ngự trị trong thơ ông là
ngôn ngữ hoạt bát mà sắc cạnh, uyển chuyển mà chính xác, đa dạng trong
cách nói, phong phú trong cách thể hiện một ngôn ngữ hằng ngày nhiều ví
von, nhiều tục ngữ, thành ngữ, một ngôn ngữ đầy sức sống của dân tộc, của
thời đại”[ 8 ,tr.797].
GS. Nguyễn Đình Chú với bài viết Tú Xương “ bậc thần thơ thánh chữ
” trong cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại đã nhận xét : “ Ngôn ngữ thơ của
6
Tú Xương là ngôn ngữ lấy từ cuộc sống bình thường, trần trụi, từ khẩu ngữ
của dân gian”[ 7 ,tr .46] Bài viết của tác giả đã thể hiện cái nhìn và sự vận lý
giải về cách sử dụng và vận dụng của Nguyễn Du và Tú Xương rất khác nhau,
cho ta thấy được sự khác nhau trong hai màu sắc “bác học và dân gian”.
Mỗi công trình bài viết kể trên đều là những đóng góp thiết thực có giá
trị trong việc khẳng định và tôn vinh tài năng trong sáng tác thơ của Tú
Xương.Có thể nói mỗi bài viết, với mỗi cách cảm cách nhìn,cách trình bày
đánh giá về yếu tố ngôn từ nghệ thuật. Chúng tôi thấy được sự quan tâm đặc
biệt dành cho Tú Xương.
Trên cơ sở tiếp thu và có chọn lọc những ý kiến đánh giá của các bài
viết của các tác giả đã đi trước nghiên cứu, đặc biệt là sự nỗ lực của bản thân
trên tinh thần bám sát văn bản thơ để tiến hành tìm hiểu về đặc điểm ngôn
ngữ trong thơ Tú Xương trên phương diện ngôn ngữ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Ngôn ngữ thơ Tú Xương.
Phạm vi nghiên cứu: Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi tiến hành
khảo sát, thống kê thơ Tú Xương tìm hiểu trong cuốn Tú Xương-tác phẩm,
giai thoại ( Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xuất bản 1986) do Nguyễn
Văn Huyền chủ biên và Nguyễn Đình Chú viết lời giới thiệu. Khi tiến hành
tìm hiểu đặc điểm về ngôn ngữ thơ Tú Xương thì chúng tôi chỉ sử dụng hệ
thống 134 bài chính thức, 68 bài còn lại đang tồn nghi nên chúng tôi không sử
dụng. Sau khi khảo sát, thống kê phân loại các đặc điểm về ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp và các biện pháp tu từ để thấy được phong cách chức năng ngôn
ngữ nghệ thuật được thể hiện như thế nào trong sáng tác thơ của Tú Xương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành các phương pháp sau:
- Đọc tài liệu, sưu tầm và ghi chép những tài liệu có liên quan đến đề tài
7
- Khảo sát, thống kê và phân loại
- Phân tích, chứng minh và rút ra những kết luận cần thiết
- So sánh đối chiếu.
5. Bố cục của khóa luận
Bài viết được chia làm 3 phần, gồm có : Phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Nội dung chính của khóa luận gồm 3 chương:
- Chương I. Những vấn đề lí luận xung quanh đề tài.
- Chương II. Ngôn ngữ thơ Tú Xương.
- Chương III. Giọng điệu thơ Tú Xương.
Nội dung của đề tài được trình bày cụ thể sau đây
8
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN XUNG QUANH ĐỀ TÀI
1.1 Khái quát về phong cách chức năng ngôn ngữ tiếng Việt
1.1.1 Khái niệm phong cách ngôn ngữ
Phong cách ngôn ngữ hay phong cách chức năng ngôn ngữ được hiểu
là những khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, hình thành từ những thói quen
sử dụng ngôn ngữ, có tính chất truyền thống, tính chất chuẩn mực.
Cù Đình Tú định nghĩa : “ Phong cách chức năng ngôn ngữ là dạng tồn
tại của ngôn ngữ dân tộc biểu thị quy luật lựa chọn, sử dụng các phương tiện
biểu hiện tùy thuộc vào tổng hợp các nhân tố ngoài ngôn ngữ như hoàn cảnh
giao tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp, đối tượng tham dự giao tiếp”.
1.1.2 Các phong cách chức năng ngôn ngữ tiếng Việt
Ðứng về mặt ngôn ngữ học thì việc phân loại và miêu tả các phong
cách chức năng ngôn ngữ tiếng Việt là yêu cầu lí thuyết đặt ra cho bất kì ngôn
ngữ nào đã và đang ở thời kì phát triển. Trong giao tiếp, phong cách chức
năng ngôn ngữ luôn giữ vai trò quan trọng, mọi sự non kém, thiếu sót về ngôn
ngữ đều sẽ bộc lộ khi sử dụng các phong cách chức năng ngôn ngữ.
Ðối với nhà trường, sự phân loại và miêu tả các phong cách sẽ tạo ra
những cơ môi giới. Tất cả những nét phong phú và sâu sắc, thâm thuý và tinh
tế, tất cả những khả năng biến hoá của tiếng Việt đều thể hiện trong phong
cách và qua phong cách. Tất cả những vấn đề quan trọng như : Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt, chuẩn hoá ngôn ngữ, phát triển và nâng cao tiếng
Việt văn hoá đều phải được giải quyết trong sự gắn bó mật thiết với phong
cách. Sự phân loại và miêu tả các phong cách có ý nghĩa về nhiều mặt như: ý
nghĩa xã hội, ý nghĩa lí luận và ý nghĩa sư phạm…như vậy chúng ta thấy
được ý nghĩa và tầm quan trọng của phong cách chức năng ngôn ngữ Tiếng
việt.
9
Việc phân loại các phong cách chức năng ngôn ngữ là một vấn đề đã
được đặt ra từ thời Mĩ từ pháp cổ đại với lược đồ bánh xe phong cách của
Virgile. Riêng ở Việt Nam vấn đề này chỉ mới thực sự quan tâm từ khi có các
giáo trình về phong cách học. Cụ thể là trong quyển Giáo trình Việt ngữ tập 3
của Ðinh Trọng Lạc xuất bản năm 1964. Từ đó đến nay đã có rất nhiều quan
điểm khác nhau về cách phân loại các phong cách chức năng ngôn ngữ Tiếng
Việt. Và thực tế vấn đề này vẫn chưa có tiếng nói chung cả về số lượng các
phong cách và cả về thuật ngữ.
Có thể khảo sát các quan điểm về cách phân chia như sau : theo tiêu
chí chức năng xã hội của ngôn ngữ nhóm tác giả Võ Bình phân loại gồm có
phong cách khẩu ngữ, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách ngôn
ngữ văn hóa ( trong phong cách ngôn ngữ văn hóa gồm có phong cách khoa
học, phong cách báo chí tin tức, phong cách chính luận, phong cách hành
chính- công vụ và phong cách cổ động), cách phân loại phong cách chức
năng ngôn ngữ của Đinh Trọng Lạc (1993) là: phong cách hành chính- công
vụ, phong cách khoa học, phong cách báo chí –công luận, phong cách chính
luận và phong cách sinh hoạt hàng ngày. Còn GS. Cù Ðình Tú phân loại dựa
trên sự đối lập giữa phong cách khẩu ngữ tự nhiên và phong cách ngôn ngữ
gọt giũa. Sau đó, trên cơ sở chức năng giao tiếp của xã hội mà chia tiếp phong
cách ngôn ngữ gọt giũa thành : Phong cách khoa học, phong cách chính luận,
phong cách hành chính. Phong cách chức năngs ngôn ngữ văn chương được
khảo sát riêng không nằm trong phong cách ngôn ngữ gọt giũa.
Giảng viên: TS. Bùi Trọng Ngoãn trong cuốn giáo trình phong cách
học tiếng Việt cũng đưa ra nhận định như sau: Coi ngôn ngữ nghệ thuật là một
phong cách chức năng và có tất cả sáu phong cách chức năng ngôn ngữ tiếng
Việt, ông đưa ra những lí do giải thích vì sao lại cho rằng ngôn ngữ nghệ
thuật cũng là một phong cách chức năng như 5 phong cách trên như sau :