Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thơ chữ Hán Cao Bá Quát những điểm mới về nội dung và nghệ thuật
PREMIUM
Số trang
196
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1688

Thơ chữ Hán Cao Bá Quát những điểm mới về nội dung và nghệ thuật

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TÍNH

THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TÍNH

THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS.TS. LÃ NHÂM THÌN

Hà Nội, 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận án xin cam đoan đây là công trình

nghiên cứu của riêng mình. Những kết quả và số liệu

trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố

trên bất cứ tài liệu nào. Nếu sai, tác giả xin hoàn toàn

chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Tính

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 2

4. Phƣơng pháp nghiên cứu 3

5. Đóng góp của luận án 5

6. Cấu trúc của luận án 5

NỘI DUNG

Chương 1: TỔNG QUAN 6

1.1. Lịch sử vấn đề 6

1.1.1. Lịch sử văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát 6

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu quan niệm văn học của Cao Bá Quát 7

1.1.3. Lịch sử nghiên cứu những điểm mới của thơ chữ Hán

Cao Bá Quát

10

1.1.3.1. Nghiên cứu những điểm mới về nội dung 10

1.1.3.2. Nghiên cứu những điểm mới về nghệ thuật 14

1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài 17

1.2.1. Lí thuyết liên văn bản 17

1.2.2. Lí thuyết nghiên cứu văn học sử về tác giả 18

Chương 2: NHỮNG TIỀN ĐỀ TẠO NÊN ĐIỂM MỚI TRONG THƠ

CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT

22

2.1.Tiền đề lịch sử, xã hội nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX 22

2.1.1.Những yếu tố truyền thống đã tỏ ra lỗi thời 22

2.1.2. Tầng lớp thị dân và tư tưởng phi Nho giáo 24

2.1.3. Ảnh hưởng bước đầu của tư tưởng, văn hoá phương Tây 25

2.2. Tiền đề văn hóa, văn học

2.2.1. Tiền đề văn hoá

29

29

2.2.1.1. Văn hóa dân gian và trào lƣu tƣ tƣởng nhân văn chủ nghĩa

2.2.1.2. Hoạt động chấn hƣng văn hoá của nhóm sĩ phu Hà thành

đầu thế kỉ XIX

29

31

2.2.2. Tiền đề văn học 32

2.2.2.1. Đổi mới về lực lƣợng sáng tác 32

2.2.2.2. Đổi mới trong quan niệm sáng tác 33

2.2.2.3. Sự ƣu thắng của văn học phi chức năng, văn học hình tƣợng 34

2.3. Cuộc đời, con người Cao Bá Quát 36

2.3.1. Con người tài năng, phóng túng, ưa đổi mới 36

2.3.2. Con người ưu phẫn 37

2.3.3. Con người được giao lưu, tiếp xúc với phương Tây qua chuyến

đi “Dương trình hiệu lực” ở Hạ Châu

38

Chương 3: NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG 41

3.1. Từ quan niệm văn học của Cao Bá Quát đến những điểm mới

trong thơ chữ Hán của tác giả

41

3.2. Điểm mới trong quan niệm về xã hội 47

3.2.1. Điểm mới trong việc nhìn nhận và phản ánh hiện thực xã hội

trong nước

47

3.2.1.1. Sự hoài nghi về lí tƣởng, con đƣờng khoa cử 47

3.2.1.2. Sự quan tâm tới rủi may của cuộc đời và tƣ tƣởng,

nhân tính con ngƣời trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt

52

3.2.2. Ảnh hưởng của nước ngoài trong cách nhìn về xã hội,

về thế giới được phản ánh trong sáng tác

58

3.2.2.1. Thể hiện nhận thức mới ở sự khác lạ về con ngƣời 59

3.2.2.2. Thể hiện nhận thức mới về sự giàu sang và sức mạnh

của văn minh phƣơng Tây

61

3.2.2.3. Thể hiện nhận thức mới về khả năng xâm lƣợc của

phƣơng Tây

64

3.3. Điểm mới về chữ “tình” 69

3.3.1. Quan niệm về chữ “tình” 70

3.3.2 Thế giới tình cảm của Cao Bá Quát trong các mối quan hệ của

cuộc sống đời thường

72

3.3.2.1. Tình cảm gia đình 72

3.3.2.2. Tình cảm bạn bè 79

3.3.2.3. Tình cảm trong các mối quan hệ xã hội khác 85

3.4. Điểm mới trong chủ đề người phụ nữ 88

3.4.1. Điểm mới về đối tượng phản ánh 88

3.4.2. Điểm mới trong cảm nhận về ngoại hình,hành động, cử chỉ và

tâm lí nhân vật

89

3.5. Điểm mới trong chủ đề thiên nhiên 96

3.5.1. Cảnh sinh động, đa sắc, giàu trạng thái 98

3.5.2. Cảnh khắc nghiệt, dữ dội, thất thường, hủy diệt 102

Chương 4: NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NGHỆ THUẬT 106

4.1. Không gian, thời gian đời tư 106

4.1.1. Không gian đời tư 106

4.1.1.1. Không gian đời tƣ - nơi quê nhà thân thiết 106

4.1.1.2. Không gian đời tƣ - nơi chất chứa nỗi sầu hận, bế tắc 109

4.1.2. Thời gian đời tư

4.1.2.1. Thời gian sinh hoạt hàng ngày

4.1.2.2. Thời gian cụ thể, trực cảm

116

116

119

4.2. Sự phát triển hình thức thể loại kí sự thơ 121

4.2.1. Sự nhiệt thành thể hiện cái tôi của tác giả 122

4.2.1.1. Sử dụng đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất 122

4.2.1.2. Nghệ thuật tự dẫn, chú giải 126

4.2.1.3. Biểu hiện lí sự, nghị luận, phân tích của lí tính 132

4.2.2. Sự gia tăng tính trần thuật, miêu tả tường tận, chi tiết 135

4.2.2.1. Cách đặt nhan đề tƣờng minh 135

4.2.2.2. Cách chú trọng các chi tiết cụ thể 137

4.2.2.3. Cách liên tƣởng, so sánh 142

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

152

165

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Về khoa học cơ bản

1.1.1. Cùng với mảng văn học chữ Nôm, văn học chữ Hán nửa đầu thế kỉ XIX

phát triển rực rỡ. Trong đó, Cao Bá Quát (1808 - 1855) không chỉ là một nhân vật lịch sử

mà còn là một tác gia văn học lớn. Ông đƣợc mệnh danh là Thánh Quát và đƣợc đánh giá

là một hiện tƣợng có lẽ “chỉ xuất hiện một lần trong văn học Việt Nam” [74,11]. Nổi

tiếng với tài “tịch thƣợng tác”, Cao Bá Quát thành công ở nhiều thể loại: truyện, phú, hát

nói, thơ… Trong đó, chủ yếu là bằng chữ Hán, đặc biệt là thơ chữ Hán. Với 1212 bài thơ

chữ Hán đã đƣợc sƣu tập, công bố (căn cứ vào Cao Bá Quát toàn tập (Mai Quốc Liên

chủ biên), hai tập, Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2004, 2012),

ông trở thành một trong những cây bút sáng tác bằng chữ Hán lớn nhất trong lịch sử văn

học dân tộc.

1.1.2. Thơ chữ Hán của Cao Bá Quát đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của giới

nghiên cứu ngay từ sau cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, dù đã có nhiều công trình về

Cao Bá Quát - cả về sƣu tầm, dịch thuật và nghiên cứu nhƣng những đổi mới của nhà thơ

lớn này vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách thấu đáo và có hệ thống. Một phần nguyên

nhân là do sáng tác của ông chƣa đƣợc sƣu tầm, dịch thuật, công bố đầy đủ. Bộ sách Cao

Bá Quát toàn tập (hai tập) do Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản

tạo điều kiện to lớn cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán toàn diện, hệ thống. Trên cơ sở tác

phẩm thơ chữ Hán của Cao Bá Quát đã đƣợc xử lí cơ bản về văn bản học, cùng với

những tƣ liệu hữu quan, ngƣời nghiên cứu có thể tiếp cận Cao Bá Quát từ nhiều góc độ

khác nhau, trong đó việc so sánh thơ chữ Hán Cao Bá Quát với các tác giả trƣớc và cùng

thời với ông có vai trò rất quan trọng. Cách tiếp cận này vừa cho phép tìm hiểu con ngƣời

và thời đại Cao Bá Quát vừa đánh giá đƣợc đóng góp của ông đối với tiến trình lịch sử

văn học dân tộc, từ đó, góp phần xác định địa vị văn học sử của tác giả.

1.1.3. Trong thời trung đại, sự tự ý thức về tác giả chƣa cao, làm văn thơ có khi

vay mƣợn, sao chép theo những khuôn mẫu. Cao Bá Quát kịch liệt phản đối lối sáng tác

truyền thống ấy. Ông theo quan niệm “Văn tất kỉ xuất” (Văn phải tự mình làm ra). Văn

chƣơng của ông thể hiện “một tâm hồn nhạy cảm, một năng lực sáng tạo to lớn, trƣớc

chiều sâu suy tƣởng và dự cảm xã hội có ý nghĩa thời đại, trƣớc diện đề tài phong phú và

2

những hình ảnh, tứ thơ thực sự sinh động, tân kì” [148,15]. Từ tƣ tƣởng quan điểm đề cao

mạnh mẽ vai trò sáng tạo của cá nhân, với tài năng của mình, Cao Bá Quát trở thành một

trong số rất ít cây bút trong văn học Việt Nam trung đại có phong cách sáng tác. Văn

chƣơng của ông có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại với những

đóng góp mang ý nghĩa đổi mới cả về nội dung và nghệ thuật. Đề tài làm sáng tỏ vị trí

của Cao Bá Quát - “nhân vật có tính chất tƣợng trƣng thực sự đứng giữa ngƣỡng cửa một

giai đoạn mới trong lịch sử Việt Nam”, “là ngƣời khởi xƣớng phong trào cải lƣơng vào

nửa sau thế kỉ XIX” (N.I.Nikulin). Mặt khác, đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn đặc điểm

“ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam thời trung đại.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Thơ chữ Hán Cao Bá Quát -

những điểm mới về nội dung và nghệ thuật.

1.2. Về ý nghĩa thực tiễn

Tác phẩm của Cao Bá Quát đƣợc chú trọng giảng dạy rộng rãi từ hệ phổ thông, cao đẳng

đến đại học trong cả nƣớc. Nhiều tác phẩm đƣợc giảng dạy trong nhà trƣờng thể hiện

những đổi mới của Cao Bá Quát. Đề tài này góp phần phục vụ việc giảng dạy văn

chƣơng Cao Bá Quát nói riêng, văn học Việt Nam trung đại nói chung ở các cấp học hiệu

quả hơn.

Ngoài ra, luận án còn góp phần khẳng định tài năng của Cao Bá Quát một cách có

cơ sở, giúp cho việc nghiên cứu toàn diện về nhà thơ này có hệ thống hơn.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

- Đặt thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong tiến trình của văn học dân tộc, so sánh thơ

ca của ông với thơ chữ Hán của các tác giả tiêu biểu trƣớc và cùng thời với ông, đề tài

nhằm tìm ra những điểm riêng, mang tính chất đổi mới của Cao Bá Quát.

- Từ đó, đề tài xác định, tìm hiểu những đóng góp của Cao Bá Quát đối với văn

học Việt Nam thời trung đại, thấy đƣợc vai trò dự báo cho sự phá cách của cả một thế hệ,

góp phần tạo nên đặc điểm giao thời của văn học trung đại với văn học hiện đại trong thế

kỉ XIX.

3

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (gồm 1212 bài đƣợc dịch ra tiếng Việt, in trong Cao

Bá Quát toàn tập).

- Thơ chữ Hán của một số tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam trung đại

(Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Phan Thúc Trực, Nguyễn Miên Thẩm…)

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Những đổi mới về nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá

Quát so với các tác giả trƣớc và cùng thời với ông trong văn học Việt Nam trung đại.

- Phạm vi tƣ liệu:

+ Tài liệu chính mà chúng tôi sử dụng trong luận án là Cao Bá Quát toàn tập

(Mai Quốc Liên chủ biên), hai tập, Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà

Nội, 2004, 2012. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo cuốn Thơ văn Cao Bá Quát, Vũ

Khiêu (Chủ trì), Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2010 và các văn bản dịch thơ Cao Bá Quát từ

nhiều nguồn khác nhau để đối chiếu, tham khảo.

+ Để phục vụ cho việc so sánh, chúng tôi sử dụng thêm các tài liệu thơ chữ Hán

của các tác giả văn học Việt Nam trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì

Nhậm, Nguyễn Du, Phan Thúc Trực, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Miên

Thẩm…

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp so sánh đối chiếu

Đây là phƣơng pháp quan trọng nhất đƣợc sử dụng trong nghiên cứu đề tài của

chúng tôi.

Chúng tôi chủ yếu so sánh nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát với

các tác giả tiêu biểu trƣớc Cao Bá Quát (đặc biệt là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du) để thấy sự

kế thừa và đổi mới của Cao Bá Quát so với thi ca thời trƣớc ông.

Bên cạnh đó, chúng tôi kết hợp so sánh thơ chữ Hán Cao Bá Quát các tác giả cùng

thời với ông (nửa đầu thế kỉ XIX, trọng tâm là các tác giả Nguyễn Văn Siêu, Phan Thúc

Trực, Nguyễn Miên Thẩm) để tìm ra sự khác biệt, mới mẻ của Cao Bá Quát so với các

tác giả đƣơng thời.

4

Chúng tôi cũng đặt thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong mối tƣơng quan với đặc điểm

thi pháp của văn học trung đại và văn học hiện đại Việt Nam để thấy đƣợc những đóng

góp của tác giả đối với văn học dân tộc, nhất là ở việc bƣớc đầu đặt nền móng cho sự

hiện đại hoá văn học dân tộc.

4.2. Phương pháp hệ thống

Phƣơng pháp hệ thống cung cấp cho ngƣời viết cái nhìn bao quát khi nghiên cứu

những điểm mới về nội dung, nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát, thấy đƣợc sự kế thừa

và sáng tạo của Cao Bá Quát.

Với phƣơng pháp hệ thống, chúng tôi sử dụng các thao tác khảo sát, thống kê,

phân loại…

4.3. Phương pháp lịch sử - cụ thể

Phƣơng pháp lịch sử nhằm nghiên cứu Cao Bá Quát trong mối quan hệ với hoàn

cảnh lịch sử cụ thể để làm cơ sở cho những phân tích, nhận định, đánh giá về tác giả.

4.4. Phương pháp tiếp cận liên ngành

Bằng phƣơng pháp tiếp cận liên ngành, chúng tôi vận dụng các thành tựu nghiên

cứu của các bộ môn khoa học xã hội nhƣ: văn bản học, sử học, văn hoá học, triết học,

lịch sử tƣ tƣởng, tâm lí học, xã hội học… nhằm nghiên cứu Cao Bá Quát trong mối quan

hệ với văn hoá, hoàn cảnh lịch sử cụ thể… để làm cơ sở cho những nhận định, đánh giá

mang ý nghĩa lí luận.

4.5. Phương pháp loại hình học tác giả

Với phƣơng pháp loại hình học tác giả, chúng tôi đặt Cao Bá Quát trong hệ thống

các nhà nho tài tử, các tác giả “chủ tình”, “quý chân”… trong văn học cuối thế kỉ XVIII

đầu thế kỉ XIX để tìm những điểm mới của thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong xu hƣớng của

giai đoạn văn học nói chung, của Cao Bá Quát nói riêng.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp khác: phƣơng pháp đọc

sâu, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp… để thực hiện đề tài.

5

5. Đóng góp của luận án

- Luận án là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê toàn bộ thơ chữ Hán Cao Bá

Quát - 1212 bài thơ - trên nhiều phƣơng diện khác nhau để đánh giá một cách hệ thống và

toàn diện cả về nội dung, nghệ thuật.

- Luận án bổ sung những lí giải mới, chỉ ra đƣợc sự độc đáo của thơ chữ Hán Cao

Bá Quát về nội dung và nghệ thuật.

- Luận án góp thêm một tiếng nói và sự nhìn nhận đánh giá thơ chữ Hán Cao Bá

Quát - một nhân vật lịch sử đặc biệt và một hiện tƣợng thơ văn mới mẻ. Kết quả nghiên

cứu của luận án nêu bật những đóng góp của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân

tộc, góp phần nhận diện sự vận động và phát triển của văn học dân tộc. Qua đó, luận án

góp phần tìm hiểu thời đại Cao Bá Quát và các tác gia văn học trung đại khác đồng thời

góp phần nhận diện sự vận động và phát triển của văn học dân tộc.

- Luận án góp phần khẳng định tài năng Cao Bá Quát một cách có cơ sở, giúp cho

việc nghiên cứu toàn diện về nhà thơ này có hệ thống hơn.

- Luận án góp phần giảng dạy tác giả, tác phẩm Cao Bá Quát ở các cấp đào tạo

đƣợc tốt hơn.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài những phần quy định chung (Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình

nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, Tài liệu tham khảo), luận án đƣợc

trình bày thành 4 chƣơng:

Chƣơng 1: Tổng quan

Chƣơng 2: Những tiền đề tạo nên điểm mới trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát

Chƣơng 3: Những điểm mới về nội dung

Chƣơng 4: Những điểm mới về nghệ thuật

Ngoài ra, luận án còn có phần Phụ lục - bao gồm các bảng thống kê tƣ liệu sử

dụng trong luận án.

6

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Lịch sử vấn đề

Việc nghiên cứu, tìm hiểu về Cao Bá Quát đã đƣợc bắt đầu ngay từ trƣớc cách

mạng tháng Tám 1945. Khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy những vấn đề

liên quan đến đề tài đã đƣợc đề cập trên các phƣơng diện sau:

1.1.1. Lịch sử văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát

Lịch sử văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã đƣợc nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc

Quận tìm tòi, xác định công phu, chi tiết trong các bài: Vài nhận xét về tập Thơ văn Cao

Bá Quát [128], Văn bản tác phẩm Cao Bá Quát [129], Vấn đề văn bản tác phẩm Cao Bá

Quát [131]. Trên cơ sở các công bố khoa học của nhà nghiên cứu, chúng tôi xin tóm lƣợc

nhƣ sau:

- Năm 1970, Công trình tập thể Thơ chữ Hán Cao Bá Quát do nhóm Vũ Khiêu

tuyển dịch và biên soạn có 161 bài tính theo lần in thứ nhất (1970). Bấy giờ, số bài thơ

chữ Hán đƣợc xác định của Cao Bá Quát là 1353 bài.

- Năm 1984, nhân lần in thứ 3, tập sách đổi tên thành Thơ văn Cao Bá Quát. Cuốn

sách này đăng 156 bài, rút bỏ 5 bài do nhóm biên soạn phát hiện các bài thơ ấy là của tác

giả khác. Tuy nhiên, cuốn sách “vẫn còn khoảng 5 bài nữa không phải của Cao Bá Quát”

[128,15].

- Theo kết luận của nhà nghiên cứu, số lƣợng thơ chữ Hán của Cao Bá Quát là

1335 bài. Tuy nhiên, tác giả cũng nói rõ, trong 1335 bài ấy, “có 8 bài không thấy chép

trong toàn bộ tƣ liệu thơ chữ Hán” mà tác giả thu thập đƣợc, “46 bài chỉ tìm thấy trong

bản D (Cao Bá Quát thi tập, ký hiệu A.210) là bản có nhiều ghi chép rối rắm”, “không

thấy chép trong các sách nào khác nên cũng cần đƣợc chú ý khảo sát thêm về mặt văn

bản học” [131].

Trên cơ sở sƣu tầm và khảo cứu văn bản tác phẩm của nhà nghiên cứu Nguyễn

Ngọc Quận, Trung tâm Nghiên cứu quốc học đã kế thừa công trình của nhóm Vũ Khiêu,

đồng thời tổ chức dịch thuật toàn bộ thơ văn Cao Bá Quát. Năm 2004 và năm 2012,

Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, nhà xuất bản Văn học đã xuất bản Cao Bá Quát toàn

tập, trong đó công bố 1212 bài thơ chữ Hán. Nhƣ vậy, so với kết luận của nhà nghiên

7

cứu, còn 123 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát vẫn chƣa đƣợc công bố trong bộ toàn tập

này.

Do đó, vấn đề văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát tuy đã có kết quả to lớn, song

vẫn cần đƣợc khảo sát, nghiên cứu thêm để hoàn thiện.

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát

Quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát đã đƣợc bàn đến qua những bài viết của

các tác giả: Trúc Khê, Lê Trí Viễn, Phƣơng Lựu, Nguyễn Lộc, Vũ Khiêu…, trong đó, có

cả những công trình nghiên cứu chuyên biệt của Nguyễn Tài Thƣ, Nguyễn Ngọc Quận,

Phạm Quang Trung…

Viết về vấn đề này, trƣớc khi có sự đính chính của Nguyễn Ngọc Quận năm 2004,

nhiều tác giả đã trích dẫn bài bạt Thư Tiêu Lâm thi tập hậu để khẳng định quan niệm sáng

tác của Cao Bá Quát. Trong khi đó, "…bài Thư Tiêu Lâm thi tập hậu chép trong Cao Chu

Thần thi tập - ký hiệu A. 299, là một bài hậu tự viết cho tập thơ Tiêu Lâm của tác giả

Phạm Kế Chi đƣợc nhiều nhà nghiên cứu coi là của Cao Bá Quát…", “Bài tự Thư Tiêu

Lâm thi tập hậu chƣa đủ cơ sở để xác định tác giả của nó là Cao Bá Quát hay một tác giả

cụ thể nào khác cho đến thời điểm này” [129,1135-1136].

Rất may, tƣ tƣởng trong bài Thư Tiêu Lâm thi tập hậu trùng với quan niệm của

Cao Bá Quát thể hiện trong nhiều tác phẩm, vậy nên sai lầm trên không làm thay đổi kết

quả đánh giá về quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát.

Trong các công trình nghiên cứu, các ý kiến sau có vai trò góp phần định hƣớng

cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài:

Thứ nhất là các ý kiến về quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát.

Trƣớc hết là ý thức về vai trò của nghệ sĩ. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Trần

Ngọc Vƣơng khẳng định: Trong lịch sử văn học Việt Nam, “chỉ đến thế kỉ XVIII mới có

hiện tƣợng có những nhà nho coi văn chƣơng (hiểu theo nghĩa sáng tác văn học) là sự

nghiệp chính của đời mình” và nhà nghiên cứu đã xếp Cao Bá Quát vào số 11 nhà thơ tài

tử tiêu biểu “đã lấy văn chƣơng, coi tài năng văn học là thƣớc đo quan trọng” [199,124].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận đánh giá: “Trong ý thức về ngƣời làm thơ, Cao Bá

Quát thuộc số rất hiếm tác gia văn học Việt Nam trung đại tự nhận mình là nhà thơ, tự

xác định tƣ cách nhà thơ của mình [130,131]. Điều này có ý nghĩa đặc biệt. Vì lẽ, “Khẳng

8

định và tự hào về tƣ cách của ngƣời làm thơ, của chính mình là biểu hiện của ý thức cá

tính, về vai trò của văn chƣơng” [130,132].

Về sự coi trọng “chân” và “tình” của thơ, các tác giả Nguyễn Lộc, Nguyễn Ngọc

Quận,… từ bài thơ Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh dạ toạ (Bài tiểu kệ “Uống chè” làm

trong khi ngồi khuya với Phan Sinh) đã nhận ra sự liên hệ của Cao Bá Quát giữa việc

uống trà với làm thơ: Uống chè cốt nhất là giữ đƣợc chân vị chè, nghệ thuật làm thơ cũng

vậy, cái hay không phải ở sự diêm dúa, hào nhoáng. Các tác giả Nguyễn Lộc, Nguyễn Tài

Thƣ, Nguyễn Ngọc Quận, Phạm Quang Trung… cùng chú ý tới phát biểu của Cao Bá

Quát: “Bàn về thơ, tuy phải chú trọng về quy cách, song làm thơ thì phải gốc ở tính tình”.

Nguyễn Tài Thƣ viết: “Xem “tính tình” là gốc của thơ, Cao Bá Quát đã đề cập một vấn

đề cơ bản của sáng tác nghệ thuật, đó là sự rung cảm của nghệ sĩ; nghệ sĩ có rung cảm

thật sự thì tác phẩm mới có hồn, mới có khả năng truyền tải và có tính độc đáo”

[181,324]. Nguyễn Ngọc Quận khẳng định: “Ông đã hƣớng đến vấn đề nội dung và hình

thức của thơ ca”. “Xác định phải chú trọng về quy cách” là Cao Bá Quát muốn nói đến

những luật lệ thi pháp và câu chữ, vần điệu. Và xác định: “làm thơ phải gốc ở tính tình”

tức là xác định cái căn cốt nhất của thơ” [96,32], “Chú trọng đến cảm xúc riêng của chủ

thể sáng tạo, rõ ràng Cao Bá Quát đã nhấn mạnh đến cá tính, đến sắc thái riêng của chủ

thể trữ tình” [130,133]…

Về quan niệm văn chƣơng phải có sự sáng tạo của Cao Bá Quát, Nguyễn Tài Thƣ

viết: “Cao Bá Quát luôn quan niệm thơ ca phải có hình thức đẹp (…). Nhƣng ông phản

đối chủ nghĩa hình thức trong sáng tác, phản đối lối sáng tác cầu kì, kiểu cách, chỉ biết

chạy theo câu chữ mới lạ và âm điệu khác thƣờng” [181,324]; “Là một nhà thơ lớn, Cao

Bá Quát thấy cần thiết phải học tập vốn nghệ thuật cũ của dân tộc (…) . Song học tập của

Cao Bá Quát không đồng nhất với lối giáo điều, rập khuôn, mô phỏng, bắt chƣớc. (…).

“Ông chủ trƣơng học tập song phải tiêu hoá đƣợc, phải biết biến những cái học đƣợc ở

ngƣời thành cái của mình, phải biết biến hoá trong quá trình sáng tác” [181,325- 326].

Đây cũng là ý kiến thống nhất với các tác giả khác khi tìm hiểu quan niệm văn chƣơng

của Cao Bá Quát.

Các tác giả Trần Nho Thìn, Nguyễn Ngọc Quận, Phạm Ngọc Hiền, Nguyễn Thanh

Tùng còn chú ý đến sự ảnh hƣởng thuyết “tính linh” của Cao Bá Quát. Các nhà nghiên

cứu đã khẳng định, Cao Bá Quát là ngƣời đi tiên phong trong việc ảnh hƣởng và đƣa tƣ

tƣởng thuyết “tính linh” thời Minh Thanh, quan niệm “tính linh” của Viên Mai vào sáng

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!