Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thi pháp tiểu thuyết vũ bằng
PREMIUM
Số trang
114
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
724

Thi pháp tiểu thuyết vũ bằng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HOÀNG HỮU NHẬT NAM

THI PHÁP TIỂU THUYẾT VŨ BẰNG

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, Năm 2012

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN

PHONG NAM

Phản biện 1: PGS.TS. ĐOÀN LÊ GIANG

Phản biện 2: TS. BÙI THANH TRUYỀN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm

Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và

Nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 25

tháng 8 năm 2012

Có thể tìm luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà

Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà

Nẵng

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vũ Bằng là một mẫu nhà văn – nhà báo khá điển hình, độc

đáo và tiên phong của làng văn, làng báo Việt Nam những năm đầu

thế kỷ hai mươi. Ông viết văn, viết báo từ rất sớm. Năm mười sáu

tuổi, còn đang là một học sinh trung học, ông đã có sách in Lọ văn.

Ông viết nhiều thể loại văn học: Tiểu thuyết, tùy bút, phóng sự, phê

bình, truyện ngắn, dịch thuật, hồi ký, khảo luận.

Trong dòng chảy của nền văn học hiện đại Việt Nam, nhà

văn Vũ Bằng là một hiện tượng. Suốt hành trình sự nghiệp đầy gian

nan của mình, Vũ Bằng đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm

không nhỏ với nhiều tác phẩm có giá trị. Nói đến Vũ Bằng, người ta

thường nghĩ đến những áng văn chương bất hủ mang nặng nỗi niềm

tâm sự rất thật, rất đời.

Việc tìm hiểu, nghiên cứu về đặc điểm thi pháp tiểu thuyết

Vũ Bằng là việc không hề dễ dàng; từ trước đến nay vấn đề này vẫn

còn ít được đề cập đến. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Thi pháp tiểu

thuyết Vũ Bằng” với hy vọng sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu hơn, đầy

đủ và toàn diện hơn về những giá trị nội dung và nghệ thuật tiểu

thuyết của ông. Ngoài ra đây còn là một cơ hội để chúng tôi có dịp

hiểu, khám phá thêm và góp phần vào khẳng định vị trí, tài năng của

nhà văn Vũ Bằng – một con người “đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy

về phần mình hơi thở của nghệ thuật” trong lịch sử văn học dân tộc.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trong sự nghiệp của mình, Vũ Bằng đã để lại cho đời nhiều

tiểu thuyết có tính cách tân, hiện đại. Ở góc độ nào đó, Vũ Bằng

chính là người góp phần định hướng cho những nhà văn trẻ trong

sáng tác. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng, thời kỳ trước

đổi mới việc nghiên cứu, đánh giá và giới thiệu Vũ Bằng còn rất hạn

chế. Ngược lại, sau khi được minh oan về thân thế, Vũ Bằng đã thu

hút sự quan tâm đông đảo công chúng cũng như các nhà nghiên cứu.

Trên nhiều sách, báo, tạp chí, Vũ Bằng được giới thiệu và nghiên cứu

về nhiều mặt, với nhiều góc độ khác nhau. Những phát hiện của

những nhà nghiên cứu về Vũ Bằng là nền tảng, là những gợi ý quý

báu để chúng tôi có thể vận dụng vào việc đánh giá những đặc điểm

thi pháp tiểu thuyết của Vũ Bằng.

Dựa trên tài liệu hiện có, dễ dàng nhận thấy quá trình nghiên

cứu về Vũ Bằng được chia thành hai giai đoạn rõ rệt: trước và sau

1990.

Cùng với Tô Hoài, nhà thơ Nguyễn Vỹ đã có những lời đánh

giá rất cao về Vũ Bằng, thậm chí còn đòi hỏi một vị trí văn học sử

cho Vũ Bằng. Trước 1990, có rất ít người quan tâm tìm hiểu, đánh

giá về các sáng tác văn chương của Vũ Bằng. Trong một số bài viết ít

ỏi, các tác giả cũng chỉ đưa ra những nhận xét sơ bộ về tác phẩm của

Vũ Bằng. Đáng chú ý là những ý kiến nhận xét, đánh giá của Khái

Hưng, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Vỹ, Phan Cự Đệ.

Vào năm 1930, Vũ Bằng đã được mọi người biết đến với

truyện Con ngựa già đăng trên mục “Bút mới” báo Đông Tây. Năm

1937 khi Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng được in ra, Khái

Hưng đã viết ngay bài giới thiệu trên báo Ngày nay trong đó công

nhận đây là một cuốn sách “không tầm thường chút nào”. Từ đó đến

1945, Vũ Bằng viết nhiều (cả báo, cả văn) lại xuất hiện với tư cách

một ông lớn làm nghề báo, từng giữ chân Thư ký tòa soạn các tờ báo

như Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Truyền bá,

Trung Bắc chủ nhật, “vậy mà hầu như không có nhà nghiên cứu nào

khi xem xét lai lịch văn học 1932 – 1945 để công viết riêng viết kĩ về

ông” ngoại trừ trường hợp Vũ Ngọc Phan. Tại chương: “Tiểu thuyết

tả chân” của Nhà văn hiện đại, có bốn nhà văn được Vũ Ngọc Phan

đề cập đến là Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp và Tô

Hoài. Trong phần viết về Vũ Bằng, ông đã nhiều lần nhấn mạnh đến

“một lối văn ngộ, làm cho người ta thích đọc” của Vũ Bằng. Tuy

nhiên có thể do chưa nhận thức hết nên ông đánh giá không cao chất

lượng tiểu thuyết của Vũ Bằng.

Khi giới thiệu về Vũ Bằng trong Văn thi sĩ tiền chiến (1969),

Nguyễn Vỹ viết: “Trong văn học sử Việt Nam thế kỷ XX, Vũ Bằng

phải có một địa vị xứng đáng. Cứ đọc hết các tác phẩm của Vũ Bằng,

thì ai cũng phải công nhận rằng Vũ Bằng để lại một sự nghiệp văn

học nếu không nói là thật lớn lao, thì cũng là nổi bật thời tiền chiến”

[32, tr.125]. Tuy nhiên, trái với ý kiến của Nguyễn Vỹ, nhà nghiên

cứu Phan Cự Đệ trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, viết

vào những năm 70 của thế kỷ XX đã không đánh giá cao vị trí, vai

trò của Vũ Bằng trong dòng chảy văn học sử Việt Nam. Cụ thể,

“trong cuốn Khảo về tiểu thuyết, Vũ Bằng đưa ra một quan điểm lỗi

thời cho rằng tiểu thuyết là một thể loại văn học để “tiêu khiển”, để

làm cho người đọc “quên mình đi” trong chốc lát.

Từ sau năm 1990, vấn đề nhân thân của Vũ Bằng được nhìn

nhận lại. Đặc biệt vào năm 2000, thân thế của Vũ Bằng được làm

sáng tỏ khi Bộ Quốc phòng xác nhận quá trình hoạt động tình báo

cách mạng của ông từ 1952 – 30/04/1975. Đây là sự kiện đặc biệt

quan trọng và ý nghĩa đối với hương hồn nhà văn cũng như người

thân của ông. Công lao của nhà văn kiêm tình báo cách mạng họ Vũ

được Nhà nước xác nhận đã xóa tan những dè dặt trong giới nghiên

cứu để con người và văn nghiệp của Vũ Bằng được công chúng biết

đến nhiều hơn, nghiên cứu ở nhiều góc độ sâu rộng hơn.

Những bài viết của các tác giả như Mã Giang Lân, Bùi Việt

Thắng, Văn Giá, Vương Trí Nhàn,… đã đưa Vũ Bằng trở lại vị trí

văn học sử của mình. Tô Hoài trong bài viết: Vũ Bằng “Thương nhớ

mười hai” đăng trên Tạp chí Văn học, số 1 năm 1991 đã bảo vệ các

giá trị văn chương đích thực của Vũ Bằng. Ông thấy “mỗi trang của

Vũ Bằng là một ưu uẩn, một ước mong tức tưởi không tới được,

không bao giờ tới được, không thể cầu được thấy”. Ông đã viết về

Vũ Bằng với sự trân trọng và khâm phục một văn tài, nâng niu một

tâm hồn, một nhân cách.

Bài viết của Vương Trí Nhàn trong lời dẫn giới thiệu công

trình Khảo về tiểu thuyết của Vũ Bằng chỉ rõ: “nhà văn họ Vũ đã nắm

được điểm quan trọng nhất của tiểu thuyết là tính tự do của nó. Nó là

một cái gì triệt để phi quy phạm”. Ở lời giới thiệu cuốn Tạp văn Vũ

Bằng, Nguyễn Ánh Ngân kể lại: “Trong ký ức của các nhà văn đương

thời, Vũ Bằng được nhắc đến với lòng trìu mến và ít nhiều tri ân. Đó

là một nhà văn mang nặng nỗi niềm xa quê đau đáu, về cuối đời

ngậm ngùi an phận mà hồi tưởng quá khứ tung hoành” [22, tr.9].

Cuốn Từ điển văn học (bộ mới), ghi nhận: “Văn hồi ký của

ông là loại văn trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm,

hướng về phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở. Các câu văn tràn

đầy cảm xúc, cảm giác tinh tế”. Nguyễn Ngọc Thiện trong Phong

cách và đời văn đã khen ngợi: “Trên lĩnh vực văn chương, Vũ Bằng

là một nhà văn độc đáo, tài hoa, mang dấu ấn phong cách rõ rệt. Ông

thành công trên hai thể loại chính là tiểu thuyết và ký, đặc biệt về hồi

kí tùy bút, tạp văn” [29, tr.420 – 421].

Năm 2008, nhà xuất bản văn hóa Sài Gòn giới thiệu cuốn tài

liệu Vũ Bằng – các tác phẩm mới tìm thấy của nhà sưu tầm Lại

Nguyên Ân. Theo Lại Nguyên Ân, đây không chỉ là các tác phẩm mà

còn là những tư liệu, thậm chí là loại tư liệu hiếm, quý về nhiều

phương điện khác nhau.

Một trong những người có công trong quá trình “Đi tìm chỗ

đứt gãy trong lý lịch nhà văn Vũ Bằng” là Văn Giá. Văn Giá đã đánh

giá rất cao về Vũ Bằng. Với ông, Vũ Bằng “không những là nhà báo

bậc thầy mà còn là một nhà văn đầy tài năng”.

Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên cho chúng ta thấy rằng:

dung lượng khảo sát các bài nghiên cứu chưa bao quát, hầu hết chỉ

xét từ một tác phẩm (trường hợp Vương Trí Nhàn giới thiệu tác phẩm

Cai ) hay một phần tác phẩm (trường hợp Văn Giá nghiên cứu Tháng

ba rét nàng Bân); có khi đưa ra đoạn văn và lời nhận xét rút ra tuy

sâu sắc nhưng phần lớn mang tính chất tổng quát, giới thiệu tùy theo

góc nhìn của từng tác giả (trường hợp Vương Trí Nhàn so sánh văn

Vũ Bằng với Nam Cao, Văn Giá so sánh Vũ Bằng với Nguyễn Tuân,

Thạch Lam). Do đó, các bài nghiên cứu Vũ Bằng mới chỉ dừng ở

mức “Phác thảo một chân dung”, tập trung chủ yếu vào hồi ký, tản

văn, tác phẩm báo chí nhiều hơn so với nghiên cứu về tiểu thuyết,

nhất là nghiên cứu dưới góc nhìn thi pháp.

Có thể nói, Vũ Bằng và tác phẩm của ông đã được dư luận

quan tâm nghiên cứu từ lâu. Lí luận tiểu thuyết và tiểu thuyết Vũ

Bằng tuy đã được giới thiệu và bàn luận khá nhiều nhưng còn sơ

lược. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống về tiểu thuyết Vũ Bằng

từ lý luận tới đến tác phẩm vẫn còn bỏ ngỏ. Kế thừa thành quả nghiên

cứu của những người đi trước, trong luận văn này, chúng tôi nghiên

cứu các đặc điểm thi pháp tiểu thuyết của Vũ Bằng với hy vọng có

được một nhìn nhận đầy đủ, thấu đáo sâu sắc hơn trong sự nghiệp

cầm bút của ông.

3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các phương diện liên

quan đến tiểu thuyết của nhà văn Vũ Bằng: từ lý luận về tiểu thuyết

đến thực tiễn sáng tác của ông. Thông qua việc khảo sát các phương

diện kỹ thuật, thủ pháp của nhà văn khi viết tiểu thuyết như cốt

truyện, nhân vật tiểu thuyết, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn

ngữ, giọng điệu tiểu thuyết rất riêng của Vũ Bằng để thấy được nhận

thức của tác giả về thể loại. Từ đó, có đánh giá về những đóng góp

của Vũ Bằng đối với tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.

Đề tài tập trung nghiên cứu một số văn bản chủ yếu như

chuyên luận Khảo về tiểu thuyết và các tiểu thuyết của Vũ Bằng gồm:

Truyện hai người (1940), Tội ác và hối hận (1940), Để cho chàng

khỏi khổ (1941), Bóng ma nhà mệ Hoát (1973), Nước mắt người tình

(1973). Ngoài ra, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ của đề

tài chúng tôi cũng sử dụng một số văn bản văn xuôi khác của Vũ

Bằng.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng

phương pháp cấu trúc. Nhờ đó, chúng tôi dễ dàng chọn lọc được các

dẫn chứng cần thiết trong quá trình nghiên cứu văn bản tác phẩm tiểu

thuyết của Vũ Bằng.

Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, chúng tôi còn kết hợp sử

dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang

lại những đóng góp nhất định trong việc làm rõ hơn những giá trị của

tiểu thuyết Vũ Bằng. Từ việc phân tích các tác phẩm, chúng tôi sẽ

giúp bạn đọc có cái nhìn tương đối toàn diện về vấn đề đặt ra, mạnh

dạn đưa ra những ý kiến bổ sung trên cơ sở những gợi ý từ các công

trình đi trước. Đồng thời, luận văn đưa ra và làm sáng tỏ hơn những

đặc điểm thi pháp tiểu thuyết Vũ Bằng, từ đó góp thêm một tiếng nói

khẳng định tài năng của Vũ Bằng đối với nền văn xuôi hiện đại Việt

Nam.

Luận văn cũng là một trong những tài liệu tham khảo hữu ích

cho sinh viên trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về nhà văn Vũ

Bằng.

6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận và Danh mục tài liệu tham

khảo, phần chính văn gồm ba chương:

Chương 1: Nhà văn Vũ Bằng và một quan niệm mới mẻ, hiện

đại về tiểu thuyết

Chương 2: Đặc điểm thế giới hình tượng trong tiểu thuyết

Vũ Bằng

Chương 3: Nét riêng của ngôn ngữ và giọng điệu tiểu thuyết

Vũ Bằng

Chương 1

NHÀ VĂN VŨ BẰNG VÀ MỘT QUAN NIỆM MỚI MẺ

HIỆN ĐẠI VỀ TIỂU THUYẾT

1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng

1.1.1. Chân dung nhà văn Vũ Bằng

Vũ Bằng là một nhà báo, nhà văn tài năng. Trong thời gian

hoạt động tình báo, Vũ Bằng phải lặng lẽ gánh chịu nhiều đau khổ, cả

gia đình ông cũng phải chịu những thiệt thòi. Một thời gian dài, cuộc

đời và sự nghiệp văn chương nghệ thuật của Vũ Bằng tưởng như

chìm vào quên lãng và dường như bị phủ nhận bởi án “quay lưng lại

với kháng chiến”, “di cư vào Nam theo giặc”… Nhưng bằng nghị lực

phi thường của một nhà cách mạng, ông đã vượt qua mọi điều tiếng,

hoàn thành tốt nhiệm vụ mà cách mạng tin tưởng giao. Vì thế, khi

danh phận được làm sáng tỏ, người đời càng ngưỡng mộ và khâm

phục ông gấp bội lần.

Trong số các nhà văn, nhà báo Việt Nam, Vũ Bằng là một

trường hợp đặc biệt. Tên thật của ông là Vũ Đăng Bằng, sinh ngày 3

tháng 6 năm 1913 tại Hà Nội.

Từ những năm 30 đầu thế kỷ XX, Vũ Bằng liên tục viết cho

nhiều báo, sáng tác nhiều tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau. Sau

hơn 40 năm cầm bút, Vũ Bằng đã để lại cho đời (nếu in thành sách)

cũng được gần 100 cuốn, “trong đó có hàng ngàn trang sách văn học

lấp lánh tài hoa và chứa chan lòng nhân ái”.

Năm 1946, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, hầu hết người

Hà Nội đều tản cư về các miền quê, tránh xa vùng chiến sự, Vũ Bằng

và gia đình cũng tản cư. Với Vũ Bằng những ngày ở vùng kháng

chiến là những ngày cực khổ, nhưng cũng đầy vui vẻ: ông vừa làm

báo, vừa cùng vợ kéo sợi đem ra chợ bán. Cuộc sống vùng tản cư

ngày càng gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Họ luôn phải đối mặt với

vấn đề nan giải: ở lại hay về thành ? Trên thực tế, nhiều người vì

động cơ khác nhau đã “dinh tê”, có người chỉ vì miếng cơm manh áo,

có người vì sự an toàn tính mạng, có người lại vì động cơ chính trị sa

ngã vào con đường làm tay sai cho địch… tất cả những người chịu án

“dinh tê” đều bị mang tiếng xấu, mang cái tội quay lưng với kháng

chiến, Vũ Bằng cũng là một trong số đó.

Năm 1954, được sự phân công của tổ chức, ông đành để lại

vợ, con trai ở lại Hà Nội để vào Nam làm nhiệm vụ. Số phận đặt ông

vào những thử thách mới đầy khó khăn và oan nghiệt mà chỉ ông mới

thấu hiểu.

Năm 1975, đất nước thống nhất, mặc dù hoài hương đất Bắc

nhưng Vũ Bằng vẫn sinh sống tại miền Nam với cuộc đời chật vật

chuyện cơm áo và khổ đau, nhất là thân phận chưa được làm sáng tỏ.

Ngày 8/4/1984, ông đã bỏ tất cả ở lại trần thế, trút hơi thở cuối cùng,

đi vào cõi vĩnh hằng.

Ngày 1 tháng 3 năm 2000, Tổng cục II của Bộ Quốc phòng

đã xác nhận Vũ Bằng là nhà văn - chiến sĩ tình báo của ta hoạt động

trong lòng địch theo sự phân công của cấp trên. Ngày 13 tháng 2 năm

2007, Vũ Bằng đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học

nghệ thuật.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng

1.1.2.1. Lĩnh vực báo chí

Ở nước ta đầu thế kỷ XX, kiểu nhà báo - nhà văn trở nên phổ

biến trong giới văn nghệ. Những năm ba mươi và những năm bốn

mươi, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tam

Lang, Vũ Bằng… đều có những sáng tác phổ biến qua báo chí. Vũ

Bằng là hình ảnh tiêu biểu cho kiểu nhà văn – nhà báo giai đoạn này.

Trên cương vị một nhà văn hay nhà báo, ông đều có những đóng góp

tích cực và quan trọng, những đóng góp đó đã xác lập nên vị trí nhất

định của Vũ Bằng trong lịch sử văn nghệ Việt Nam.

Vũ Bằng có những luận thuyết và quan niệm về nghề báo

thật là nghiêm cẩn. Con người ấy trong suốt cuộc đời cầm bút đã âm

thầm chịu đựng nhiều tai tiếng. Triệu Xuân từng nói: Vũ Bằng là

“người lữ hành đơn côi”. Mặc dù vậy, sau chặng đường dài hơn 40

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!