Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thế giới nghệ thuật trong thánh tông di thảo và truyền kỳ mạn lục.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHẠM THỊ KIM LIÊN
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO
VÀ TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng, Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN PHONG NAM
Phản biện 1: TS. HÀ NGỌC HÒA
Phản biện 2: TS. CAO THỊ XUÂN PHƯỢNG
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học
Đà Nẵng vào ngày 24 tháng 7 năm 2015
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở góc độ văn học, truyện truyền kỳ là một thể loại đặc trưng
của văn học trung đại Việt Nam, lịch sử hình thành của nó đã đặt nền
móng cho sự phát triển văn học dân tộc, đặc biệt là có giá trị và tầm
ảnh hưởng rất lớn về mặt nghệ thuật.
Giai đoạn từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII được xem là bước đột
khởi của truyện ngắn trung đại Việt Nam. Sự xuất hiện hai tác phẩm:
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục được xem như hai thành
tựu sáng giá nhất của thể loại văn học truyền kỳ ở giai đoạn này. Hai
tác phẩm là đại diện tiêu biểu, đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật của
truyện truyền kỳ Việt Nam trung đại. Đồng thời, hai tác phẩm này có
nhiều đặc điểm giống nhau về mặt thể loại truyền kỳ như nghệ thuật
hư cấu, cốt truyện ... mà ở các tác phẩm khác không có nhiều điểm
chung như vậy.
Việc nghiên cứu về truyện truyền kỳ nói chung, hai văn bản
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục nói riêng đã được nghiên
cứu nhiều nhưng vẫn còn những điều cần được tiếp tục tìm hiểu. Đặc
biệt là những vấn đề về nghệ thuật thì càng tìm hiểu, nghiên cứu sẽ
càng thấy giá trị đặc sắc của tác phẩm. Mặt khác, nghiên cứu Thế giới
nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục là để
nhận thức rõ hơn giá trị nghệ thuật của tác phẩm để từ đó phục vụ
cho nhu cầu giảng dạy và học tập.
Với những điều nêu trên, chúng tôi quyết định đi vào tìm hiểu,
nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo và Truyền
kỳ mạn lục. Đó chính là lý do chúng tôi chọn đề tài này.
2
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về truyện truyền kỳ Việt Nam trong nền văn học
trung đại, các nhà nghiên cứu thường đặt ra vấn đề về nguồn gốc, đặc
điểm thể loại. Đến thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu truyện truyền
kỳ có những thay đổi quan trọng. Di sản truyện truyền kỳ được chú ý
tìm hiểu, nhận thức một cách toàn diện hơn; Các tác phẩm truyện
truyền kỳ được soi rọi từ nhiều góc cạnh, nó được đặt trong không
gian nghiên cứu rộng hơn, phương pháp tiếp cận đa dạng hơn.
Trong thực tế nghiên cứu truyện truyền kỳ, nổi bật nhất là
hướng nghiên cứu, so sánh truyện truyền kỳ Việt Nam với truyện
truyền kỳ Trung Quốc. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về loại hình
truyện truyền kỳ Việt Nam các công trình nghiên cứu đã có những
hướng đi chi tiết, cụ thể, khoa học, hướng vào nhiều góc độ khác
nhau của đối tượng để tìm hiểu, đánh giá vấn đề. Bước đầu kết quả
nghiên cứu vấn đề đã giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về
truyện truyền kỳ Việt Nam, cũng như mối quan hệ của nền văn hóa,
văn học Trung Quốc, với nền văn hóa, văn học khu vực và thế giới;
Việc tiếp cận, nghiên cứu văn bản truyện truyền kỳ nói chung,
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục nói riêng được các nhà
nghiên cứu quan tâm trên phạm vi rộng, hướng nghiên cứu mang
tính văn học sử. Vấn đề Thế giới nghệ thuật trong Thánh Tông di
thảo và Truyền kỳ mạn lục được các nhà nghiên cứu quan tâm, xem
xét song cũng chỉ là những bài nghiên cứu về từng văn bản riêng lẻ.
a) Về văn bản Thánh Tông di thảo
Trong Lời giới thiệu về Thánh Tông di thảo của Lê Sỹ Thắng
và Hà Thúc Minh trích trong " Lê Thánh Tông: tác giả và tác phẩm",
Nxb Giáo dục, 2007, hai tác giả đã thống nhất cho rằng:"Thánh Tông
3
di thảo là tác phẩm có một vị trí nhất định trong lịch sử văn hóa của
dân tộc nhất là về mặt văn học"; Lê Nhật Ký trong Yếu tố kỳ ảo trong
Thánh Tông di thảo đã khẳng định yếu tố kì ảo có một vai trò quan
trọng và khẳng định yếu tố kỳ ảo trong Thánh Tông di thảo được sử
dụng một cách linh hoạt và đem đến cho tác phẩm những giá trị
đích thực.
b) Về văn bản Truyền kỳ mạn lục
Khác với Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục ngoài những
nghiên cứu về văn học sử như cách gọi đúng tên tác giả, về thời gian
sống và sáng tác của tác giả Nguyễn Dữ, hay sách hoàn thành vào
năm nào thì một số công trình cũng đã bước đầu tiếp cận đến nội
dung và nghệ thuật. Có thể kể đến một số công trình như sau:
Lịch sử văn học Việt Nam, tập II, của Bùi Văn Nguyên;
Truyền kỳ mạn lục và những thành tựu của văn xuôi Việt Nam, Đinh
Gia Khánh, trích trong tuyển tập, tập II, Nxb Giáo dục, 2007; Tìm
hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ, Nguyễn Phạm Hùng, Tạp chí Văn học, số 2, 1987.
Tóm lại, việc nghiên cứu truyện truyền kỳ Việt Nam thì hai
tác phẩm có tính tiêu biểu là Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn
lục cũng đã có những "soi rọi" của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, về
nghệ thuật thì chỉ dừng lại ở mức độ tổng quan, khái lược, chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện về khía cạnh nghệ thuật của hai tác phẩm.
Trong đề tài của mình, chúng tôi muốn có một cái nhìn toàn
diện, khách quan về thế giới nghệ thuật của Thánh Tông di thảo và
Truyền kỳ mạn lục, góp phần nâng cao giá trị nghệ thuật của hai tác
phẩm lên một tầm cao mới.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Thế giới nghệ thuật
trong hai tác phẩm: Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sử dụng hai tác phẩm Thánh Tông di thảo và Truyền
kỳ mạn lục: bản Thánh Tông di thảo do Nguyễn Bích Ngô dịch và
chú thích, Phạm Văn Thắm giới thiệu; bản Truyền kỳ mạn lục do
Trúc Khuê Ngô Văn Triện dịch (tái bản lần thứ nhất) do Nxb Trẻ và
Nxb Hồng Bàng phát hành, năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ thuật trong
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi vận dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp hệ thống - cấu trúc;
Phương pháp loại hình; Phương pháp so sánh, đối chiếu
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên góp phần hệ thống thế giới
nghệ thuật được miêu tả trong hai tác phẩm Thánh Tông di thảo và
Truyền kỳ mạn lục. Qua đó, luận văn đem lại một cái nhìn tương đối
toàn diện về nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm.
Nội dung của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để
tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy trong trường học về hai tác phẩm
nói trên.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương:
5
Chương 1: Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục - Vấn đề
tác phẩm và tác giả
Chương 2: Thế giới hình tượng trong Thánh Tông di thảo và
Truyền kỳ mạn lục
Chương 3: Phương thức thể hiện thế giới nghệ thuật trong
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục
6
CHƯƠNG 1
THÁNH TÔNG DI THẢO VÀ TRUYỀN KỲ MẠN LỤCVẤN ĐỀ TÁC PHẨM VÀ TÁC GIẢ
1.1. THÁNH TÔNG DI THẢO - VẤN ĐỀ TÁC PHẨM VÀ
TÁC GIẢ
1.1.1. Tác phẩm Thánh Tông di thảo
Hiện nay Thánh Tông di thảo được lưu giữ với hai văn bản: đó
là một bản chép tay đang được lưu giữ tại thư viện Viện nghiên cứu
Hán Nôm, kí hiệu A202 và một bản Microflim được bảo quản tại thư
viện Trường Viễn Đông Bác cổ, kí hiệu M.F 11/6/993.
Tác phẩm Thánh Tông di thảo gồm hai quyển: quyển Thượng
bao gồm 13 truyện và quyển hạ gồm 6 truyện. Hai quyển này được
đóng thành một tập khổ 13,5 x 20,5 cm, dày156 trang. Thánh Tông di
thảo có 19 truyện; Văn bản Thánh Tông di thảo, hiện nay có bản dịch
của Nguyễn Bích Ngô được xuất bản hai lần:
+ Lần 1: Do Nguyễn Văn Tú hiệu đính, Lê Sỹ Thắng giới
thiệu, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, 1963.
+ Lần 2: Do Phạm Văn Thắm giới thiệu, Nxb Văn học, 2001.
1.1.2. Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo
Thánh Tông di thảo quả có nhiều điểm khiến cho giới nghiên
cứu không thể không đặt những dấu hỏi nghi ngờ. Song, từ trước đến
nay, các nhà nghiên cứu đều đi đến một nhận định tương đối thống
nhất. Nhiều thiên trong Thánh Tông di thảo chắc chắn phải là của Lê
Thánh Tông. Chính điều này được coi là cơ sở để nghiên cứu tác
phẩm, nhằm làm sáng tỏ con người và tư tưởng của Lê Thánh Tông
cũng như vấn đề của thời đại ông.
7
1.1.3. Về tác giả Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442),
húy là Tư Thành, là cháu nội vua Lê Thái Tổ, người anh hùng dân
tộc vĩ đại thế kỷ XV, là con thứ tư, của vua Lê Thái Tông, mẹ là Ngô
Thị Ngọc Dao, con gái của thái bảo Ngô Từ, người làng Động Bàng,
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ngô Từ vốn là một khai quốc
công thần dưới triều Lê Thái Tổ.
1.2. TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - VẤN ĐỀ TÁC PHẨM VÀ
TÁC GIẢ
1.2.1. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục
Truyền kỳ mạn lục gồm 4 quyển, 20 thiên, có Lời tựa của Hà
Thiện Hán đề năm 1547 và tương truyền Đại hưng hầu Nguyễn Thế
Nghi, bạn thân của Mạc Đăng Dung đã dịch ra chữ Nôm, được thầy
dạy là Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính. Theo Phan Huy Chú, Truyền
kỳ mạn lục có 22 truyện, nhưng các bản sách hiện nay đều chỉ có 20
truyện; Văn bản Truyền kỳ mạn lục, hiện có nhiều dị bản mang các
tên gọi khác nhau như: Cựu biên truyền kỳ mạn lục, hoặc Tân biên
truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập cú. Những văn bản này đã
được khắc in và sao chép nhiều lần để đáp ứng nhu cầu của người
đọc.
1.2.2. Vấn đề tác giả của Truyền kỳ mạn lục
Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc, phủ Hồng
Châu, (nay là xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).
Cha là Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khóa Bính Thìn, đời Hồng Đức
(1496), làm quan đến Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Dữ từ nhỏ đã nổi
tiếng học rộng nhớ nhiều.
Dù có rất nhiều giả thuyết nghiên cứu về cuộc đời Nguyễn Dữ
nhưng vẫn khẳng định rằng: Ông là tác giả của tác phẩm truyện
8
truyền kỳ nổi tiếng Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm được đánh giá cao,
là một thiên cổ kì bút, áng văn hay của bậc đại gia muôn đời.
1.3. VỊ TRÍ CỦA THÁNH TÔNG DI THẢO VÀ TRUYỀN KỲ
MẠN LỤC TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
1.3.1. Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục trong thể
loại truyền kì
Truyện truyền kì chỉ thực sự xuất hiện vào thế kỉ XV-XVI với
sự ra đời của Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục, trong đó
Thánh Tông di thảo được xem là "bước đột khởi" (Vũ Thanh) và
Truyền kỳ mạn lục là đỉnh cao của thể loại.
1.3.2. Ảnh hưởng của Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn
lục trong mạch truyện văn xuôi trung đại
Những cốt truyện trong những tác phẩm của Lí Tế Xuyên,
Trần Thế Pháp đã được thay đổi khi đến tay Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ. Ở đây, cái cốt truyện cũ chính là cái cớ để nhà văn thể
hiện đều mình muốn gửi gắm đã tạo nên sáng tạo mới. Điều này cho
thấy, thể hiện bước tiến quan trọng của thể loại truyện truyền kì Việt
Nam thời trung đại. Đến thời Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ thì kiểu
nhân vật mới bắt đầu xuất hiện. Nhà văn đồng nhất với nhân vật.
Điều này, được thể hiện thành công trong Thánh Tông di thảo với
việc xuất hiện nhân vật thứ ba - hiện thân của nhà văn. Lúc này, nhân
vật không chỉ miêu tả ở bên ngoài mà lúc này đã đi sâu vào khai thác
thế giới tâm hồn, đời sống nội tâm phong phú cùng với khắc họa tính
cách nhân vật. Chính vì vậy, Nguyễn Dữ được coi là cha đẻ của loại
hình truyện ngắn trung đại Việt Nam. Vào thế kỉ XV, Thánh Tông di
thảo đã mở ra một giai đoạn mới trong quá trình hình thành và phát
triển của truyện ngắn Việt Nam.
9
TIỂU KẾT
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục là hai tác phẩm có
ảnh hưởng rất lớn đến dòng văn học truyện truyền kỳ văn học trung
đại Việt Nam. Về nguồn gốc xuất xứ của văn bản và cũng như chính
các tác giả tạo nên hai kiệt tác này còn nhiều tranh luận của các nhà
nghiên cứu. Tuy nhiên, với sự khu biệt và giới hạn nghiên cứu của
luận văn ở phương diện thế giới nghệ thuật thì chúng tôi nhận thấy
hai tác phẩm đã có một vị trí rất "đắc địa" trong "mảnh đất" truyện
truyền kỳ Việt Nam. Hai tác phẩm này đã đặt nền móng cho sự phát
triển của dòng văn xuôi trung đại Việt Nam, đặc biệt là một số yếu tố
như : cốt truyện, tình tiết, môtip bắt nguồn từ văn học dân gian được
đưa vào các câu chuyện trong hai tác phẩm một cách sáng tạo, mang
tính nghệ thuật, góc nhìn thẩm mỹ của tác giả.
10
CHƯƠNG 2
THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG
TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO VÀ TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Đối với tác phẩm truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam, xét về
phương diện nghệ thuật thì Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục
là hai tác phẩm đại diện tiêu biểu. Đặc biệt là ở góc độ xây dựng hình
tượng nghệ thuật trong tác phẩm và vấn đề đặt nhân vật trong một
không gian, thời gian nghệ thuật mang ý nghĩa thi pháp đặc sắc, góp
phần tôn thêm giá trị nghệ thuật của từng câu chuyện trong các
tác phẩm.
2.1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG Thánh Tông di thảo và
Truyền kỳ mạn lục
2.1.1. Kiểu hình tượng nhân vật "hiện thực" trong Thánh
Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục
a. Hình tượng nhân vật vua chúa, quan lại
Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đều là hai nhà nho, chịu ảnh
hưởng tư tưởng nho giáo chính thống. Trong tác phẩm của mình, các
tác giả đã xây dựng nhiều nhân vật vua chúa, quan lại phong kiến
theo quan điểm riêng. Nếu như, từ quan điểm phong kiến tập quyền
trung ương, Lê Thánh Tông thường phản ánh quyền lực tối cao của
nhà vua thì Nguyễn Dữ lại nhận ra bọn vua quan ở thời đại ông có
nhiều xấu xa, hèn mọn. Tuy có sự khác nhau về phản ánh nhân vật
vua quan phong kiến nhưng các tác phẩm đều trở thành tấm gương
soi thời đại của các tác giả.
b. Hình tượng nhân vật nho sĩ
Ở xã hội phong kiến, hình tượng nhân vật nho sĩ là đối tượng
luôn được xã hội quan tâm và đặt nhiều hi vọng. Vì vậy, loại nhân
vật này xuất hiện khá phổ biến trong Thánh Tông di thảo và Truyền