Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thế giới nghệ thuật thơ đồng đức bốn.
PREMIUM
Số trang
139
Kích thước
846.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
870

Thế giới nghệ thuật thơ đồng đức bốn.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BÙI VĂN QUẢNG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

THƠ ĐỒNG ĐỨC BỐN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, Năm 2015

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ MINH HIỀN

Phản biện 1: TS. NGUYỄN KHẮC SÍNH

Phản biện 2: TS. LÊ THỊ HƯỜNG

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm

Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và

Nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 24 tháng

7 năm 2015

Có thể tìm luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Thơ ca Việt Nam sau 1975, đặc biệt sau 1986 đã có

những bước vận động và phát triển mạnh mẽ. Hòa cùng dòng chảy

của văn học, thơ ca đã có những chuyển biến tích cực và đạt nhiều

thành tựu đáng kể. Hầu hết, các tác phẩm thơ giai đoạn này đã thể

hiện những cảm xúc chân thực trước hiện thực đời sống, đi sâu

vào khám phá những ngóc ngách sâu thẳm của tâm hồn con người.

Chính vì thế, thơ ca mang những dấu ấn của thời đại… Sau thời kì

Đổi Mới, nhiều nhà thơ trẻ xuất hiện với những cách tân đem lại

hơi thở hiện đại cho thơ. Chính họ đã làm thơ ca đổi mới, đáp ứng

được thị hiếu của công chúng yêu thơ.

1.2. Giữa dòng chảy của sự phát triển đó, Đồng Đức Bốn

xuất hiện. Ông lặng lẽ đi bên đời với những khám phá riêng về thế

giới, tâm hồn và cuộc sống. Khác với thơ của các tác giả cùng thời

luôn gắn với cái mới, cái lạ, thơ Đồng Đức Bốn là cuộc hành trình

quay về với những giá trị truyền thống của dân tộc. Ông biết kế

thừa và “chưng hồn cốt dân gian” để tạo nên một thế giới thơ đẹp

đẽ, đầy sức sống và giàu cảm xúc đến nao lòng. Thơ Đồng Đức

Bốn có thể được coi là những giai điệu khỏe khoắn cất lên từ một

tâm hồn khao khát mãnh liệt tình yêu và cuộc sống. Đó cũng là

tiếng nói giản dị, hồn nhiên, vừa dân dã, mộc mạc, vừa hiện đại,

mới mẻ, tạo ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt,

Đồng Đức Bốn đã làm sống dậy dòng thơ lục bát truyền thống với

cách nói hồn hậu, tha thiết, nhiều cung bậc yêu thương. Chính vì

2

vậy, ông trở thành một gương mặt mới, đầy cá tính trong làng thơ

Việt Nam thời kì Đổi Mới.

1.3. Có thể nói, Đồng Đức Bốn đã góp phần khẳng định sức

sống mới của thơ trữ tình hiện đại bằng cách tạo ra sắc màu mới

cho những vấn đề ngỡ là đã cũ bằng một lối nói hiện đại, dung dị,

mang dấu ấn của riêng mình. Đồng Đức Bốn đã sáng tạo một thế

giới thơ đầy ám ảnh, xử lí thấu đáo những hình ảnh mang vẻ đẹp

trữ tình của hồn quê cùng sự trải nghiệm của chính cuộc đời mình,

của những hoài niệm về tình yêu, về mẹ và về cha. Đó là thế giới

một thời “chăn trâu đốt lửa”, với những dòng sông mang trong

mình những bão giông gai góc cuộc đời, là thế giới của “chim mỏ

vàng và hoa cỏ độc” - thế giới của những khát vọng đẹp đẽ về tình

người và lẽ sống. Tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ Đồng Đức Bốn

với chúng tôi là một việc làm cần thiết giúp thẩm định vẻ đẹp thơ

Đồng Đức Bốn, góp phần khẳng định vị trí của ông trên thi đàn

dân tộc đồng thời cũng là cách để khám phá sự mới mẻ về thơ

hiện đại trong sự gắn kết với cội nguồn thơ ca dân tộc.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Cho đến thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều công trình, bài

viết nghiên cứu của nhiều nhà khoa học viết về Đồng Đức Bốn và

thơ ca của ông như: Giới thiệu Đồng Đức Bốn của Nguyễn Huy

Thiệp, Đồng Đức Bốn đa đoan lục bát gọi nhau của Bùi Kim Anh,

Những bài thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn của Đinh Quang

Tốn, Trời đưa anh đến cõi thơ của Đỗ Minh Tuấn, Đồng Đức

Bốn – phiêu du vào lục bát của Nguyễn Đăng Điệp, Đồng Đức

Bốn: lấy thơ làm cõi đi về bơ vơ của Phạm Văn Học, Cảm hứng

3

chủ đạo và một số mô típ nổi bật trong thơ Đồng Đức Bốn của

Nguyễn Đức Hạnh

Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung

tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Đồng Đức Bốn một cách hệ

thống. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ “khoảng trắng” về thế giới

nghệ thuật thơ Đồng Đức Bốn là một việc làm cần thiết. Đó là

động lực và là lí do để chúng tôi thâm nhập tìm hiểu những yếu tố

đã làm xôn xao dư luận thơ Đồng Đức Bốn trong những năm qua.

Bằng việc làm này, chúng tôi cũng cố gắng góp phần đánh giá sâu

sắc, hoàn thiện hơn vị trí, đóng góp của Đồng Đức Bốn đối với thơ

ca đương đại Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Các khía cạnh của thế giới thơ Đồng Đức Bốn như thế giới

hình tượng trong thơ Đồng Đức Bốn, các phương thức nghệ thuật

làm nên thế giới nghệ thuật thơ ông.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Các tập thơ của Đồng Đức Bốn:

Con ngựa trắng và rừng quả đắng, NXB Văn học 1992

Chăn trâu đốt lửa, NXB Lao động, 1993

Trở về với mẹ ta thôi, NXB Hội Nhà văn, 2000

Cuối cùng vẫn còn dòng sông, NXB Hội Nhà văn, 2000

Chuông chùa kêu trong mưa, NXb Hội Nhà văn, 2002

Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, NXB Hội Nhà văn, 2006

4

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương

pháp sau:

- Phương pháp hệ thống – cấu trúc

- Phương pháp phân tích – tổng hợp

- Phương pháp thống kê

- Phương pháp đối chiếu – so sánh.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng

thêm một số phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.

5. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội

dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Thơ Đồng Đức Bốn trong dòng chảy của thơ

Việt Nam sau 1975

Chương 2: Thế giới hình tượng trong thơ Đồng Đức Bốn

Chương 3: Những phương thức nghệ thuật trong thơ Đồng

Đức Bốn

5

CHƯƠNG 1

THƠ ĐỒNG ĐỨC BỐN

TRONG DÒNG CHẢY CỦA THƠ VIỆT NAM SAU 1975

1.1. NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT CỦA THƠ VIỆT NAM SAU

1975

1.1.1. Tiếp tục cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng

và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân

Sau 1975, thơ vẫn tiếp tục mạch cảm hứng sử thi khi viết về

cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc song chất sử thi đã mang

tầm khái quát lịch sử hơn khi nó được thể hiện bằng tính chân xác,

cụ thể, thấm thía qua chiêm nghiệm cá nhân của mỗi nhà thơ. Dấu

hiệu thay đổi rõ nét nhất là thơ không còn hoàn toàn mang âm điệu

hào sảng bay bổng ngợi ca lãng mạn như trước 1975 mà đã chứa

đựng những trầm lắng, suy tư về những hi sinh, mất mát của quê

hương, đất nước trong chiến tranh và nỗi đau của con người vừa từ

giã cuộc chiến đang âm thầm gánh chịu. Trường ca là thể loại mà

các nhà thơ lựa chọn để diễn tả những cung bậc cảm xúc mới

mẻ này.

Trong thực tế, cảm hứng này chỉ tiếp tục khoảng mười lăm

năm đầu và nhạt dần khi văn học bước vào thời kì Đổi Mới và

không còn là nguồn chủ yếu để các nhà thơ tiếp tục thể hiện cảm

xúc của mình trên từng trang viết. Cảm hứng sử thi dần được thay

bằng cái nhìn đầy mẫn cảm trước những biến đổi của thực tế cuộc

sống.

6

1.1.2. Sự khẳng định cái tôi thế sự và đời tư

Khi cảm hứng sử thi nhạt dần và được thay bằng cảm hứng

thế sự đời tư thì thơ đời thường xuất hiện, hướng tới phản ánh bi

kịch của con người. Càng về sau, cảm hứng thế sự đời tư càng

được bộc lộ rõ nét và trở thành cảm hứng sáng tác chủ yếu của thơ

ca vào những năm 90 của thế kỉ XX. Khi đã có một khoảng lùi

thời gian cần thiết, các nhà thơ có điều kiện đi sâu khám phá hiện

thực đời sống để rồi họ ngỡ ngàng, đau đớn và có phần hụt hẫng

trước sự thật.

Trong thơ ca sau 1975, đặc biệt sau 1986, tinh thần dân chủ

được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua việc các nhà thơ khẳng định

cái tôi. Giọng điệu cũng trở nên đa thanh, đa nghĩa khi các tác giả

luôn tìm cách cất lên tiếng nói của riêng mình. Chính nhu cầu giải

phóng cá tính, yêu cầu dân chủ hóa ý thức xã hội đã dẫn đến việc

nhìn nhận con người theo nhiều chiều khác nhau trong xu thế đa

dạng và phức tạp hóa.

Trở về với đời sống thế sự và đời tư, thơ sau 1975 đã xác

lập được vị trí của nó trong đời sống tinh thần của xã hội với

những gương mặt thơ, những bài thơ lưu giữ được trong tâm trí

của công chúng.

1.1.3. Sự hiện đại hóa cái tôi trữ tình

Sau thời kì Đổi Mới, quan niệm nghệ thuật văn chương

cũng đã thay đổi, thơ trở thành là tiếng nói đầy ý thức trách nhiệm

của người trẻ tuổi trước những đổi thay của đất nước. Để đối diện

với cuộc đời, mạnh dạn bày tỏ quan niệm của mình, cái tôi cá

nhân trong thơ được bộc lộ đầy bản lĩnh, táo bạo, dám đối đầu với

7

thực tế, sẵn sàng phá bỏ những lề thói có sẵn cùng những quan

niệm khắt khe về thơ ca, về đạo đức của xã hội.

Với những thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật, nội dung

thơ giai đoạn này đã thể hiện những đổi mới cơ bản trên nhiều

bình diện. Cái tôi bản thể, với biểu hiện cụ thể là cái nhìn tỉnh táo

về cuộc đời và thái độ không ngừng tra vấn đời sống của các nhà

thơ, xuất hiện công khai cái tôi đậm chất suy tư, luôn trăn trở

trước sự biến thiên của cuộc đời. Nhiều nhà thơ đã tìm cách thoát

ra khỏi những quan niệm thơ và thi pháp truyền thống, mong

muốn giải phóng thơ ra khỏi các chức năng thường có. Cái tôi

được soi chiếu ở những vùng mờ tâm linh, mang đậm màu sắc

tượng trưng, siêu thực.

Nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 đã vận động một

cách mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa. Những tìm tòi khám phá

của thơ để hiện đại hóa cái tôi trữ tình thực chất là những cách tân.

Nó giúp các nhà thơ vượt ra khỏi những khuôn khổ và thói quen

đã định hình từ trước để mở ra những con đường đi mới cho thơ.

1.2. ĐỒNG ĐỨC BỐN VÀ HÀNH TRÌNH “LẤY THƠ LÀM

CÕI ĐI VỀ BƠ VƠ”

1.2.1. Đồng Đức Bốn – “người cày ruộng” trên “cánh

đồng cuộc đời”

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuần nông nghèo,

tuổi thơ Đồng Đức Bốn gắn liền với quê hương đồng ruộng, với

cuộc sống lam lũ nhưng đậm nghĩa tình. Đồng Đức Bốn sáng tác

thơ khá sớm. Nhưng phải đến khoảng những năm 80 của thế kỉ

XX, mới bắt đầu gia nhập văn đàn.

8

Sau Con ngựa trắng và rừng quả đắng, tập thơ đầu tiên

không gây được ấn tượng với người đọc. Đồng Đức Bốn được biết

đến với Chăn trâu đốt lửa, tập thơ thuần lục bát. Và với Trở về với

mẹ ta thôi, ông đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Tập

Chuông chùa kêu trong mưa (2000), khẳng định độ chín của thơ

Đồng Đức Bốn. Năm 2006, tuyển tập Chim mỏ vàng và hoa cỏ

độc (NXB Hội Nhà văn) được xuất bản, một lần nữa cho thấy sức

sáng tạo nghệ thuật dồi dào của Đồng Đức Bốn.

Cả đời mình, Đồng Đức Bốn đã thực hiện hành trình mải

miết đi về với thơ và với đời. Ông tìm thấy mình trên những nẻo

đường tràn ngập ý thơ, kí thác nỗi lòng đầy khát vọng cũng như

bao nhiêu trăn trở, day dứt về tình đời, tình người trong năm tập

thơ. Vì thế, với ông, thơ là cả cuộc đời.

1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Đồng Đức Bốn

Đồng Đức Bốn có một quan niệm rất riêng về thơ. Với ông,

thơ là bản mệnh, là lẽ sống ở đời và luôn đồng hành cùng ông trên

khắp các nẻo đường lang thang, phiêu lãng: “Tuy rằng một mái

nhà tranh/ Nhưng trái tim lớn vẫn dành cho thơ” (Đã cầm khăn gói

bơ vơ). Đồng Đức Bốn sống chết với thơ, chỉ có thơ mới giúp ông

tìm thấy chính mình. Ông viết không chỉ nhằm thể hiện mình mà

còn để trang trải nỗi lòng với những băn khoăn, trăn trở trước đời.

Trong thẳm sâu tâm hồn Đồng Đức Bốn, thơ là cõi về - cõi

trú ẩn của một người độc hành cô đơn đến lạ. Thơ chính là cõi trú

ẩn yên bình nhất của tâm hồn thi sĩ. Trong cõi thơ ấy, Đồng Đức

Bốn có thể tự do sáng tạo, bộc lộ trung thực nhất những suy ngẫm

của mình về đời.

9

Với Đồng Đức Bốn, làm thơ là hành trình “trằn lưng nếm

trải nhọc nhằn” và câu thơ viết ra là để gieo mầm cái đẹp, cái thiện

cho đời, cho người. Theo ông, câu thơ hay nhất là phải vì con

người, thực hiện sứ mệnh cao cả với đời đến “nghìn năm sau”.

Cho nên nhà thơ phải tự giác lãnh nhận và thực hiện cái thiên chức

nghệ sĩ của mình.

Đồng Đức Bốn cũng có quan niệm nghệ thuật về con người

rất rõ ràng. Với ông, con người luôn là những cá thể sống, luôn

gắn với đời, phải nếm trải và nuôi dưỡng niềm tin, khát vọng. Đó

là những thân phận biết sống và cống hiến, biết suy nghiệm về

mình, về đời để chọn một cách ứng xử phù hợp nhất với đời.

Con người trong quan niệm của Đồng Đức Bốn là con

người luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc. Hạnh phúc ấy, trong sự

thức nhận của cá nhân Đồng Đức Bốn, đó là hành trình trải

nghiệm.

Có thể nói, hành trình từ đau khổ để đến hạnh phúc và thăng

hoa cùng nghệ thuật của Đồng Đức Bốn đẫm đầy nước mắt.

Nhưng, với niềm tin vào tình yêu, cuộc sống và lòng khát khao

sáng tạo nghệ thuật, Đồng Đức Bốn đã vượt lên chính mình bằng

tinh thần “Suốt một đời anh vẫn sống đam mê” (Mai em xa Hà

Nội) để sáng tạo những vần thơ đậm đà sắc hương đủ sức để cho

người đọc có cái “vu vơ mà tìm”.

10

CHƯƠNG 2

THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG

TRONG THƠ ĐỒNG ĐỨC BỐN

2.1. HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH

2.1.1. Cái tôi máu thịt với cuộc đời

Cả cuộc đời Đồng Đức Bốn phải trải qua bao đau khổ, mất

mát. Vì thế, thơ ông là tấm gương phản chiếu bao vất vả, khổ đau

cùng những chiêm nghiệm của ông về cuộc đời.

Thơ Đồng Đức Bốn là sự cảm nhận sâu sắc những nhọc

nhằn của con người trong cuộc đời.

Mái tranh vách đất nhìn trời qua vung

Đêm nằm sao dột tứ tung

Tưởng đâu nước mắt người dưng lại về

(Nhà quê)

Trên hành trình sống của mình, cái tôi thơ lắm khi mỏi mệt,

chán chường, nhiều khi đớn đau, bất lực.

Tôi vừa lo được miếng cơm

Thì mất tí lửa tí rơm gầy lò

Tôi vừa vượt bão mưa to

Chân đã phải lội đi mò sông sâu

(Đường đi)

Đó là lúc cái tôi trữ tình đến với cảnh vật thiên nhiên, quê

hương đất nước… để gửi gắm, giãi bày tâm sự. Cho nên, thế giới

thơ Đồng Đức Bốn in đậm nghĩa tình với những vùng đất mà thi

nhân đã đi qua.

11

Lắng đọng nhất trong thơ Đồng Đức Bốn là những bài thơ

viết về mẹ. Người mẹ trong thơ Đồng Đức Bốn luôn hiện lên như

một ảnh hình vừa hiện thực, vừa huyền thoại, được đan dệt bằng

cả mưa nắng, bùn lầy, những rác rưởi lông vịt, chè chai và những

câu ca sâu thẳm đớn đau. Mẹ không chỉ là người sinh dưỡng mà

trong tâm thức nhà thơ mẹ còn là quê hương, người quê và tình

quê. Vì vậy, “trở về với mẹ” là hành trình nhà thơ tìm về với thế

giới tâm hồn mình, về với những giá trị truyền thống, đậm nhân

văn, nhân bản. Bên cạnh đó, Đồng Đức Bốn cũng viết về cha

mình, bạn bè mình… Cái tôi trữ tình qua đó thể hiện những suy

ngẫm về tình người, tình đời cùng bao triết lí được mất của con

người.

Đồng Đức Bốn cũng viết về tình yêu. Trong thơ ông, tình

yêu khi bình dị:

Tóc em để xõa ngang vai

Đi mưa về nắng cho ai nhớ thầm

…Em ngồi chải nắng vào trưa

Trong hương bồ kết thơm vừa vừa thơm

(Mưa gió về đâu)

khi mãnh liệt, táo bạo ngang tàng đến khác thường:

Anh có một gia tài giàu hơn cả gió

Là tâm hồn em đó

(Khi đã yêu những đồng cỏ hoa vàng)

Cái tôi trữ tình khi đắm say, hạnh phúc, khi tràn ngập nỗi cô

đơn trống vắng.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!
Thế giới nghệ thuật thơ đồng đức bốn. | Siêu Thị PDF