Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thành lập atlas kiến trúc - cấu tạo quặng Việt Nam. Biên tập để xuất bản 04 atlas kiến trúc đá và quặng (magma, biến chất, trầm tích và quặng) - Atlas kiến trúc và cấu tạo quặng ở Việt Nam - Atlas kiến trúc và cấu tạo các đá biến chất ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
128
Kích thước
13.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1870

Thành lập atlas kiến trúc - cấu tạo quặng Việt Nam. Biên tập để xuất bản 04 atlas kiến trúc đá và quặng (magma, biến chất, trầm tích và quặng) - Atlas kiến trúc và cấu tạo quặng ở Việt Nam - Atlas kiến trúc và cấu tạo các đá biến chất ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Bé Tµi nguyªn vµ m«i tr−êng

viÖn nghiªn cøu ®Þa chÊt vµ kho¸ng s¶n

---------------------***--------------------

atlas kiÕn tróc vµ cÊu t¹o c¸c ®¸ biÕn chÊt

ë ViÖt nam

ViÖn tr−ëng

ViÖn NC §Þa chÊt vµ Kho¸ng s¶n

PGS.TS. NguyÔn Xu©n KhiÓn

Chñ nhiÖm ®Ò tµi

TS. NguyÔn V¨n Häc

6379-2

21/5/2007

Hµ Néi, 2006

Bé Tµi nguyªn vµ m«i tr−êng

viÖn nghiªn cøu ®Þa chÊt vµ kho¸ng s¶n

---------------------***--------------------

Chñ nhiÖm: TS. NguyÔn V¨n Häc

Nh÷ng ng−êi tham gia: NguyÔn Ngäc Liªn, Ph¹m B×nh,

Lª ThÞ Thanh H−¬ng, NguyÔn §øc ChÝnh

Biªn tËp: TS. NguyÔn V¨n Häc

atlas kiÕn tróc vµ cÊu t¹o c¸c ®¸ biÕn chÊt

ë ViÖt nam

Thuéc ®Ò tµi: “Thµnh lËp atlas kiÕn tróc - cÊu t¹o quÆng ViÖt Nam;

Biªn tËp ®Ó xuÊt b¶n 04 atlas kiÕn tróc - cÊu t¹o ®¸ vµ quÆng

(magma, biÕn chÊt, trÇm tÝch vµ quÆng)”

Hµ Néi, 2006

Mục lục

Lời mở đầu

Trang

2

Chương I: Khái niệm và phân loại kiến trúc – cấu tạo đá biến chất 6

I.1 Phân loại các kiến trúc đá biến chất 7

I.1.1 Nhóm các kiến trúc biến tinh 7

I.1.2 Nhóm các kiến trúc cà nát 8

I.1.3 Nhóm các kiến trúc biến dư (tàn dư) 9

I.1.4 Nhóm kiến trúc trao đổi thay thế 9

I.2 Phân loại cấu tạo đá biến chất 10

I.2.1 Nhóm cấu tạo tàn dư (sót) 10

I.2.2 Nhóm cấu tạo biến chất 11

I.2.3 Nhóm cấu tạo migmatit 12

Chương II: Các kiến trúc – cấu tạo đá biến chất ở Việt Nam 14

II.1 Nhóm đá biến chất nhiệt động khu vực 16

II.1.1 Tướng prenit – pumpelyit 16

II.1.2 Tướng đá phiến lục 18

II.1.3 Tướng đá epidot – amphibolit 27

II.1.4 Tướng amphibolit 38

II.1.5 Kiến trúc và cấu tạo của các đá thuộc tướng granulit 44

II.2 Cấu tạo của nhóm đá siêu biến chất (migmatit) 50

II.3 Nhóm đá biến chất tiếp xúc nhiệt 59

II.4 Nhóm đá biến chất động lực 66

II.5 Nhóm đá biến chất nhiệt dịch trao đổi 71

Kết luận 93

Bảng tra cứu 94

Tài liệu tham khảo 95

2

Lời mở đầu

“Các yếu tố quan trọng nhất để xác định tên đá là kiến trúc và thành phần khoáng

vật, hơn nữa trong hai yếu tố đó thì yếu tố kiến trúc là quan trọng nhất” (E.S Fedorov,

1896).

Việc nghiên cứu kiến trúc các đá biến chất và phát hiện trong đó các kiến trúc tàn dư,

sót hoặc kế thừa có giá trị to lớn để tái lập hiện trạng của các tầng đá ban đầu hay từng loại

đá riêng biệt, từ đó cho phép phân tích lịch sử địa chất khu vực và nhận định về đặc điểm

cũng như tính liên tục của quá trình hình thành đất đá đạt tới trạng thái hiện tại. Nhận rõ tầm

quan trọng đó nên ở các quốc gia có nền khoa học địa chất phát triển như Liên Xô (cũ), Mỹ,

Nhật, Canada… đều đã thành lập những atlas kiến trúc - cấu tạo các đá nói chung và đá biến

chất nói riêng. Một mặt phục vụ công tác nghiên cứu điều tra địa chất, mặt khác nhằm giới

thiệu về sự có mặt của các tướng đá biến chất phổ biến ở mỗi quốc gia.

Đối với các nhà địa chất Việt Nam, ba tập “Kiến trúc và cấu tạo các đá magma và

biến chất” của Iu.Ir.Polovikina (xuất bản bằng tiếng Nga, 1966) được xem như cẩm nang tra

cứu của các phòng phân tích thí nghiệm về thạch học, các cán bộ nghiên cứu, các giảng viên

và sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng. Tuy nhiên atlas này chỉ đề cập tới các đá phổ

biến ở Liên Xô (cũ). Để có một cách nhìn tổng quan về hoạt động biến chất ở Việt Nam và

những đá biến chất đặc trưng cho các khu vực, Phòng phân tích Khoáng thạch học được sự

ủng hộ của lãnh đạo Viện, các phòng ban chức năng đã mạnh dạn xây dựng thuyết minh đề

tài nghiên cứu khoa học “Thành lập atlas kiến trúc – cấu tạo đá biến chất Việt Nam” thông

qua bộ sưu tập mẫu của các tác giả khác nhau ở các khu vực khác nhau trên toàn lãnh thổ

Việt Nam.

Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, ngày 05 tháng 12 năm 2003 Bộ Tài nguyên và

Môi trường (bên A) đã ký hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ số 26 RĐ/HĐ

BTNMT với Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản (bên B), giao cho bên B thực hiện đề

tài “Thành lập atlas kiến trúc – cấu tạo đá biến chất Việt Nam”. Ngày 08 tháng 12 năm 2003,

Viện trưởng Viện nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản ra quyết định phiếu giao việc số

111/GV – KH giao cho Phòng Phân tích Khoáng thạch học thực hiện đề tài “Thành lập atlas

kiến trúc – cấu tạo đá biến chất Việt Nam” do TS Nguyễn Văn Học làm chủ nhiệm.

3

Năm 2004 đề tài đã được hội đồng nghiệm thu của Viện và Bộ đánh giá rất cao kết

quả đạt được.

Năm 2005, Bộ Tài Nguyên và Môi trường giao cho Viện Nghiên cứu Địa chất và

Khoáng sản triển khai đề tài “ Thành lập atlas kiến trúc – cấu tạo quặng Việt Nam; biên tập

để xuất bản 04 atlas kiến trúc – cấu tạo đá và quặng (magma, biến chất, trầm tích và quặng)”

do TS. Nguyễn Văn Học làm chủ nhiệm.

Trên cơ sở nhiệm vụ được phê duyệt, tập thể tác giả đã tiến hành bổ sung và biên tập

atlas kiến trúc – cấu tạo đá biến chất Việt Nam theo nguyên tắc sau:

- Lựa chọn những kiến trúc – cấu tạo đặc trưng nhất hoặc những kiến trúc – cấu tạo

đặc biệt của các loại đá biến chất Việt Nam.

- Cân đối số lượng ảnh của các nhóm đá.

- Bổ sung các ảnh kiến trúc hoặc cấu tạo còn thiếu, chọn lọc các ảnh đẹp. Sắp xếp,

dàn dựng bố cục atlas theo trật tự hợp lý và khoa học.

- Hiệu chỉnh nội dung diễn giải đi kèm theo trật tự: đưa tên kiến trúc (hoặc cấu tạo)

lên đầu, tiếp theo là tên gọi đá, mô tả vắn tắt đặc điểm của các khoáng vật có mặt trong đá;

tiếp theo là số hiệu mẫu, nơi lấy mẫu, chế độ chụp ảnh, người sưu tập mẫu và người chụp

ảnh.

- Các khoáng vật có trong ảnh đều được kèm theo chữ viết tắt thể hiện tên khoáng

vật.

- Các kiến trúc và cấu tạo vẫn được mô tả theo trật tự các nhóm đá: Nhóm biến chất

nhiệt động khu vực, nhóm đá siêu biến chất, nhóm biến chất nhiệt tiếp xúc, nhóm biến chất

động lực, nhóm biến chất nhiệt dịch và trao đổi.

Nội dung atlas gồm có hai chương:

Chương I: Khái niệm và phân loại kiến trúc và cấu tạo đá biến chất. Trong phần này

đề cập tới khái nịêm về kiến trúc và cấu tạo đá biến chất.

Chương II: Các kiến trúc – cấu tạo đá biến chất ở Việt Nam. Phân loại các đá biến

chất là một vấn đề lớn mà hiện nay trên Thế giới chưa có sự phân chia thống nhất về các quá

trình biến chất và các đá biến chất.

Dựa trên sự chiếm ưu thế của yếu tố này hay yếu tố khác và bộ sưu tập mẫu hiện có ở

Việt Nam, các kiến trúc và cấu tạo được chúng tôi xếp vào năm nhóm biến chất chính.

Atlas được trình bày trong 95 trang gồm 131 ảnh minh họa cho các kiểu kiến trúc,

cấu tạo các loại đá phổ biến ở Việt Nam và diễn giải kèm theo.

4

Nghiên cứu thạch học đá biến chất là một lĩnh vực khó và phức tạp nên trong quá

trình triển khai đề tài chúng tôi đã tranh thủ sự góp ý, cộng tác với các nhà khoa học trong và

ngoài Viện để bổ sung về lý luận cũng như mẫu vật cho bộ sưu tập thêm phong phú. Đặc

biệt trong quá trình thành lập Atlas, tập thể tác giả đã nhận được sự động viên và giúp đỡ

của Ban Giám đốc, các phòng chuyên môn và nghiệp vụ có liên quan của Viện Nghiên cứu

Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cũng như các cá nhân TS Nguyễn

Xuân Khiển, TS Nguyễn Linh Ngọc, PGS.TS Bùi Minh Tâm, PGS.TSKH Dương Đức

Kiêm, TS Nguyễn Đức Thắng, KS Nguyễn Thứ Giáo … và các cộng tác viên khoa học TS

Nguyễn Ngọc Liên, KS Phạm Bình, KS Nguyễn Đức Chính và nhiều đồng nghiệp khác.

Nhân dịp này, tập thể tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành về sự giúp đỡ

quý báu đó.

Do điều kiện thời gian và kinh phí đầu tư có hạn, Atlas không thể tránh khỏi những

khiếm khuyết, kể cả nội dung khoa học, cũng như hình thức thể hiện, tập thể tác giả rất

mong nhận được ý kiến góp ý của tất cả đồng nghiệp sử dụng Atlas. Xin trân trọng cám ơn.

5

DANH SÁCH TÊN VIẾT TẮT KHOÁNG VẬT

Tên khoáng vật Viết tắt Tên khoáng vật Viết tắt

Actinolit act Graphit gp

Albit ab Glaucophan gl

Aegirin aeg Hornblend hor

Almandin amd Kaolinit kln

Alunit al Magnetit mt

Amphibol am Magnesit mg

Andaluzit ad Margazit mr

Andradit adr Microclin mi

Antigorit atg Monticelit mnt

Anthophilit anp Muscovit mus

Apatit ap Olivin ol

Augit aug Orthoclaz or

Biotit bt Octhopyroxen opx

Breinerit bre Phlogopit phl

Brucit brc Plagioclas pl

Calcit ca Prenit pr

Casiterit csr Pyrit py

Chlorit cl Pyrophylit pp

Chloritoid clt Pyrov pv

Clinoamphibol cam Pyroxen px

Clinopyroxen cpx Thạch anh q

Clinoenstatit cen Riebeckit ri

Clinozoizit czo Rutil rt

Clinohumit ch Sapphirin spr

Cordierit co Scapolit scp

Corindon crd Sericit src

Cumingtonit cum Serpentin srp

Diaspor dip Silimanit sil

Diopsit dp Sphen sph

Disten di Spinel sp

Dolomit do Staurolit st

Enstatit en Talc tal

Epidot ep Tremolit tr

Egirin eg Wolastonit wo

Ganit gn Zircon zr

Granat gr Zoizit zo

6

CHƯƠNG I

KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI KIẾN TRÚC - CẤU TẠO

ĐÁ BIẾN CHẤT

Các quan niệm về kiến trúc và cấu tạo của các loại đá nói chung – chủ yếu là đá

magma và biến chất cho đến nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến trái ngược nhau giữa các nhà

nghiên cứu khoáng vật – thạch học ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Liên Bang Nga. Từ các

luận cứ khác nhau về thạch sinh, một số nhà thạch học châu Âu và Mỹ đã đồng nhất hóa hai

khái niệm kiến trúc và cấu tạo, từ đó vấn đề lại càng trở nên khó hiểu hơn. Ở Việt Nam

chúng ta thường sử dụng tài liệu của các nhà khoa học Liên Xô (cũ) – Liên Bang Nga, cho

đến nay chúng ta vẫn tuân thủ theo các quan điểm truyền thống đó, vì vậy trong công trình

khoa học này chúng tôi vẫn dựa vào quan điểm của các nhà khoa học Liên Bang Nga mà chủ

yếu là theo quan điểm của nhà thạch học Iu.Ir. Polovinkina.

Kiến trúc. Khái niệm kiến trúc của đá theo nghĩa rộng là toàn bộ những dấu hiệu xác

định những đặc điểm về hình thái của từng hợp phần và mối quan hệ không gian giữa chúng

với nhau. Theo nghĩa hẹp kiến trúc bao gồm những dấu hiệu như trình độ kết tinh, kích

thước, hình dạng của các tinh thể và quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau. Những đặc

điểm của kiến trúc thường được nhận biết dưới kính hiển vi phân cực.

Kiến trúc của đá được xác định bởi các yếu tố sau:

1. Trình độ kết tinh của các hợp phần

2. Kích thước của các hợp phần (tuyệt đối và tương đối)

3. Hình dạng của các hợp phần và mối quan hệ giữa chúng (dạng tinh thể, độ tự hình,

các biến đổi hình dạng kích thước với các kiểu vi kiến trúc thay thế hoặc xen ghép dưới tác

động của các hoạt động địa chất kế tiếp…)

Cấu tạo. Cấu tạo là đặc điểm phân phối, bố trí trong không gian của các bộ phận hợp

thành của các loại đá, đặc trưng cho trình độ đồng nhất của chúng. Các đặc điểm cấu trúc

bên ngoài như dạng khối, khối ép, phân lớp, phân phiến, vi uốn nếp, lỗ hổng… có thể nhận

biết bằng mắt thường được gọi là cấu tạo.

Cấu tạo được xác định bởi các dấu hiệu sau:

1. Sự phân phối, bố trí các hợp phần tạo đá trong không gian liên quan với đặc điểm

kết tinh và ảnh hưởng của tác động bên ngoài.

2. Phương thức lấp đầy khoảng rỗng của đá do hệ quả của các quá trình kết tinh.

7

I.1 PHÂN LOẠI KIẾN TRÚC ĐÁ BIẾN CHẤT

Trong số các loại kiến trúc của đá biến chất và đá biến chất trao đổi có thể phân chia

làm bốn nhóm: nhóm các kiến trúc biến tinh, nhóm các kiến trúc cà nát, nhóm các kiến trúc

tàn dư và nhóm các kiến trúc thay thế.

I.1.1 NHÓM CÁC KIẾN TRÚC BIẾN TINH

Đây là kiến trúc đặc trưng các loại đá biến chất khi các vật chất ban đầu – nguyên

thủy bị tái kết tinh hoàn toàn trong trạng thái rắn, tổ hợp cộng sinh khoáng vật đạt tới trạng

thái cân bằng hóa lý trong điều kiện nhiệt động mới. Nhóm kiến trúc này thường đặc trưng

cho các loại đá biến chất nhiệt động khu vực và tiếp xúc nhiệt. Loại kiến trúc này đặc trưng

bởi một loạt các đặc điểm như: ranh giới các khoáng vật thường méo mó, vũng vịnh, nhiều

bao thể của khoáng vật này nằm trong các khoáng vật khác. Các khoáng vật thường cụm lại

thành từng đám, từng khóm thể hiện đặc điểm của quá trình kết tinh chọn lọc thuộc giai

đoạn đầu của các quá trình biến chất.

Dựa vào hình dạng của các khoáng vật tạo đá chính trong các loại đá biến chất, người

ta chia ra hai loại: các tinh thể có hình dạng méo mó – hạt tha hình và các tinh thể có hình

dạng hoàn chỉnh – hạt tự hình. Hình dạng khoáng vật trong đa số các loại đá biến chất phụ

thuộc vào khả năng kết tinh của chính các khoáng vật và độ tập trung vật chất của đá nguyên

thủy để hình thành khoáng vật đó.

Kiến trúc biến tinh được chia ra các dạng khác nhau được đặc trưng bởi hình thái

(hình dạng), kích thước và mối quan hệ của các khoáng vật.

I.1.1.1 Kiến trúc hạt biến tinh. Trong đá các hạt khoáng vật có kích thước tương đối

đều nhau, hình dạng hơi tròn, hơi kéo dài hoặc răng cưa. Dựa vào hình dạng của khoáng vật

có thể chia ra các biến thể kiến trúc sừng và kiến trúc men rạn.

Kiến trúc sừng (hornfels texture). Kiến trúc đặc trưng bởi kích thước hạt nhỏ, ranh

giới giữa các khoáng vật có nhiều khía cạnh phức tạp thường gặp trong các đá biến chất tiếp

xúc nhiệt - đá sừng.

Kiến trúc men rạn (mosaic texture). Kiến trúc này tương tự như kiến trúc sừng

nhưng kích thước hạt lớn hơn – thuộc kiến trúc hạt biến tinh đặc trưng.

I.1.1.2 Kiến trúc vảy – hạt biến tinh (lepidogranoblastic texture). Kiến trúc này đặc

trưng cho các loại đá biến chất chứa nhiều các khoáng vật dạng tấm – vảy như mica, chlorit,

8

talc, chloritoid…xen cùng các khoáng vật dạng hạt như thạch anh, plagioclas. Đá thường có

cấu tạo phân phiến đặc trưng, trong đó các khoáng vật dạng tấm phân bố định hướng.

I.1.1.3 Kiến trúc sợi biến tinh (fibroblastic texture). Kiến trúc này đặc trưng cho các

loại đá biến chất chứa nhiều khoáng vật dạng sợi, dạng kim, dạng tấm nhỏ kéo dài như

serpentin, amphibol, fibrolit…Các khoáng vật dạng sợi bện với nhau tạo nên tập hợp bó tóc

rối. Kiến trúc này thường gặp trong các đá serpentinit, nefrit, phiến fibrolit và một số loại

gneis.

I.1.1.4 Kiến trúc que biến tinh (nematoblastic texture). Đặc điểm chính của kiến trúc

này là sự có mặt trong đá các khoáng vật hình trụ kéo dài, liên kết chặt chẽ với nhau. Ngoài

các khoáng vật có dạng kim – que hay gặp các khoáng vật có dạng hình trụ, lăng trụ, tấm

kéo dài. Kiến trúc này thường gặp trong đá amphibolit, gneis amphibol, gneis biotit –

silimanit.

I.1.1.5 Kiến trúc ban biến tinh (porphyroblastic texture). Kiến trúc đặc trưng cho các

loại đá biến chất có kích thước hạt khoáng vật không đều với sự có mặt của các tinh thể lớn,

ban biến tinh nằm trên nền hạt biến tinh nhỏ hơn. Các ban biến tinh thường là các khoáng

vật granat, disten, staurolit, andaluzit, cordierit… các khoáng vật này thường có lực kết tinh

lớn thường chứa nhiều bao thể, đôi khi có tính phân đới như granat. Trong đá biến chất trao

đổi ban biến tinh có thể là microclin, albit, biotit.

I.1.1.6 Kiến trúc khảm biến tinh (poikiloblastic texture). Đây là kiến trúc, trong đó

các tấm, hạt hoặc ban biến tinh chứa nhiều bao thể nhỏ. Các bao thể có khi tự hình, có khi

tha hình, phân bố không có quy luật. Kiến trúc khảm biến tinh thường gặp trong các loại đá

sừng, đá biến chất trao đổi (metasomatit), đá phiến kết tinh.

I.1.1.7 Kiến trúc khung xương (skeleton texture). Kiến trúc này đặc trưng cho quá

trình thay thế không hoàn toàn khoáng vật trước bằng khoáng vật thứ sinh tạo nên tàn dư của

khoáng vật trước dạng khung xương.

I.1.2 NHÓM CÁC KIẾN TRÚC CÀ NÁT

Nhóm kiến trúc đặc trưng cho các loại đá biến chất động lực – cà nát do bị tác động

của hoạt động kiến tạo phay phá chồng chất về sau. Nét đặc trưng nhất là sự dập vỡ, cà nát

các hạt khoáng vật lớn tạo thành tập hợp đám hạt nhỏ hơn. Kích thước các hạt khoáng vật vỡ

vụn cũng như độ phân phiến của đá thể hiện mức độ cà nát khác nhau từ đó có thể phân ra

các kiểu kiến trúc khác nhau. ở giai đoạn đầu của quá trình dập vỡ đá, các khoáng vật dòn

như thạch anh, felspar… bị vỡ vụn, các khoáng vật dẻo như mica, chlorit, talc… bị uốn

cong. Đối với thạch anh thường có hiện tượng tắt sóng, đối với felspar, carbonat các hệ

thống song tinh, cát khai bị biến dạng – uốn cong hoặc trượt…

9

I.1.2.1 Kiến trúc cà nát (cataclastic texture). Kiến trúc cà nát xuất hiện ở giai đoạn

đầu của quá trình dập vỡ các loại đá do hoạt động kiến tạo – siết ép chịu tác động chủ yếu

của áp lực một chiều hay còn gọi là ứng lực trong điều kiện nhiệt độ thấp. Các mảnh vụn sắc

cạnh của đá hoặc khoáng vật được gắn kết lại với nhau bằng tập hợp các hạt nhỏ hơn của

chính những khoáng vật đó tạo thành ximăng gắn kết các hạt sắc cạnh lại với nhau, chưa

xuất hiện sự định hướng của tập hợp các mảnh vụn.

I.1.2.2 Kiến trúc milonit (milonitic texture). Do mức độ dập vỡ mạnh hơn so với giai

đoạn cà nát, vì vậy đá có cấu tạo dải mỏng hoặc chuỗi song song, hạt vụn lớn ít dần, có khi

hơi tròn. Trong các đá milonit đã có hiện tượng tái kết tinh hoặc hình thành các khoáng vật

mới, từ đó có thể phân ra hai loại milonit biến dư và milonit biến tinh. Dựa vào mức độ cà

nát mạnh hay yếu, dựa vào kích thước hạt vỡ vụn, trình độ tái kết tinh và trình độ ép phiến…

có thể chia ra các đá kataclazit (cà nát), milonit, filonit và các loại đá trung gian dựa vào

kích cỡ của các mảnh vụn.

I.1.3 NHÓM KIẾN TRÚC BIẾN DƯ (TÀN DƯ)

Trong các loại đá biến chất ở trình độ thấp (yếu) nhiều khi còn quan sát được kiến

trúc tàn dư của đá ban đầu (xâm nhập, phun trào, trầm tích – phun trào và trầm tích). Dựa

vào các số liệu này, công tác nghiên cứu về thạch sinh có nhiều hiệu quả - xác định nguồn

gốc nguyên thủy của các đá biến chất khác nhau “octo-” hay “para-”.

I.1.3.1 Kiến trúc tàn dư (relic texture) của đá magma. Khi các đá magma bị biến chất

chuyển sang đá phiến, gneis hoặc các loại đá khác nhiều khi vẫn quan sát thấy các kiến trúc

nguyên thủy còn sót lại được gọi là kiến trúc biến dư – granit biến dư (gneis), ophit biến dư

(metadiabaz, đá lục), gabro biến dư (gabroamphibolit), biến dư porphyr (felsit), biến dư toàn

tinh (kiến trúc lưới của olivinit bị serpentin hóa).

I.1.3.2 Kiến trúc tàn dư (relic texture) của đá trầm tích . Đối với các đá trầm tích ở

giai đoạn biến chất sớm (biến chất thấp, yếu) luôn quan sát thấy các kiến trúc biến dư: biến

dư psamit, biến dư aleurit, biến dư sét… Trong các trầm tích Paleozoi hạ Việt Nam, các kiểu

kiến trúc biến dư của đá trầm tích rất phổ biến.

I.1.4 NHÓM KIẾN TRÚC TRAO ĐỔI THAY THẾ

Các loại đá biến chất trao đổi, trao đổi nhiệt dịch, tự biến chất và biến chất chồng đa

pha… có nguồn gốc rất đa dạng, bao gồm cả sản phẩm của quá trình granit hóa, migmatit

hóa. Khi phân tích các loại đá skarn, metasomatit, berezit, greizen, propilit, quarzit thứ sinh,

serpentinit… nền cơ bản của các loại đá đó vẫn có kiến trúc biến tinh, nhưng khi xem xét tỷ

mỷ sẽ phát hiện được các hiện tượng thay thế giữa các khoáng vật trước bằng tổ hợp khoáng

10

vật sinh sau theo cơ chế thay thế trao đổi hoặc phân tách hoặc mọc xen ghép tạo nên kiến

trúc hợp kép (diablatic).

I.1.4.1 Các kiến trúc đường riềm phản ứng (kelyphitic texture). Hàng loạt các kiến

trúc đường riềm phản ứng xuất hiện ở các đá tự biến chất, biến chất chồng, đá

metasomatit… Các khoáng vật có trước được bao bọc bởi các đường riềm phản ứng bằng

tập hợp khoáng vật thay thế như cordierit bao quanh staurolit, vành mirmekit bao quanh tấm

felspar kali, pyroxen bị bao bọc bởi amphibol, granat bị bao bọc bởi riềm hypersthen,

amphibol theo kiểu mọc ghép.

I.1.4.2 Các kiến trúc hợp kép (diablastic texture). Đặc trưng cho hiện tượng mọc

xuyên ghép lẫn nhau theo chữ cổ tương tự như kiến trúc pegmatit. Một trong những kiến

trúc hợp kép là mirmekit – kiểu hợp kép giữa plagioclas và thạch anh ở phần tiếp xúc với

felspar kali – sản phẩm của quá trình biến chất trao đổi thay thế. Có nhiều kiểu hợp kép khác

nhau như cặp scapolit và pyroxen, thạch anh và biotit, plagioclas và pyroxen.

I.1.4.3 Các kiến trúc thay thế (replacement texture). Trong các loại đá skarn,

metasomatit… luôn quan sát thấy các hiện tượng thay thế của một tập hợp khoáng vật có

trước bằng tổ hợp khoáng vật sinh sau theo kiểu thay thế như calcit, dolomit → pyroxen,

granat, olivin, pyroxen → thạch anh, biotit → clorit, olivin → serpentin.

I.2 PHÂN LOẠI CẤU TẠO ĐÁ BIẾN CHẤT

Có thể phân chia ra ba nhóm cấu tạo có nguồn gốc khác nhau: cấu tạo sót (tàn dư),

cấu tạo biến chất và cấu tạo của đá migmatit – siêu biến chất.

I.2.1 NHÓM CẤU TẠO TÀN DƯ (SÓT)

Trong các thành tạo biến chất, đặc biệt là thành tạo biến chất yếu thường gặp các cấu

tạo của đá nguyên thủy còn sót lại, nghiên cứu chi tiết các đặc điểm này giúp làm sáng tỏ các

vấn đề về thạch sinh liên quan. Có ba loại cấu tạo sót của ba tổ hợp đá nguyên thủy – cấu tạo

sót của đá trầm tích, cấu tạo sót của đá magma và cấu tạo sót của đá biến chất.

I.2.1.1 Cấu tạo sót của đá trầm tích

Đối với các đá lục nguyên bị biến chất thấp – tướng prenit – pumpelyit và tướng phiến

lục thường quan sát thấy dấu vết của các cấu tạo phân lớp, phân nhịp nguyên thủy… Khi

nghiên cứu cấu tạo địa chất ở các bồn trũng, dựa vào các dấu vết của kiểu cấu tạo sót có thể

hiểu thêm được lịch sử phát triển địa chất trong các bối cảnh nhiệt động khác nhau.

I.2.1.2 Cấu tạo sót của đá magma

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!