Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu NHỮNG SỬA ĐỔI CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG NĂM 2004 potx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VỤ PHÁP CHẾ
NHỮNG SỬA ĐỔI CƠ BẢN CỦA
LUẬT BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
NĂM 2004
Hà Nội – 2004
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
2
Tổ biên tập:
- Hứa Đức Nhị - Thứ trưởng Bộ NN – PTNT, Tổ trưởng TBT
- Trịnh Đức Huy – Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thư ký TBT
- Nguyễn Ngọc Bình - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp
- Hà Công Tuấn - Cục trưởng Cục Kiểm lâm
- Ngô Đình Thọ - Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp
- Lê thị Thưa - Trưởng phòng Cục Lâm nghiệp
- Đoàn Minh Tuấn - Trưởng phòng Cục Kiểm lâm
- Phạm Xuân Phương – Chuyên viên chính Vụ Pháp chế
- Và một số thành viên khác trong và ngoài Bộ NN - PTNT
Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính: Dự án GTZ-REFAS
Giấy phép xuất bản số 360/QĐ-CXB cấp ngày 15/12/2004, Cục Xuất
bản - Bộ Văn hoá Thông tin.
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
3
Lời giới thiệu
Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội khoá VIII thông
qua ngày 12 tháng 8 năm 1991, đến nay qua hơn mười hai năm thực
hiện đã góp phần bảo vệ và phát triển rừng, tăng diện tích đất có rừng
che phủ của rừng từ 28,1% năm 1992 lên 36,1% vào năm 2003. Tuy
nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 đã phát sinh những
hạn chế nhất định trong việc phát huy hiệu lực các quy định của Luật để
điều chỉnh các quan hệ đối với rừng và đất lâm nghiệp. Năm 1999, Quốc
hội, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo vệ và phát triển rừng năm
1991. Năm 2003 Quốc hội ban hành Luật đất đai mới thay thế Luật đất
đai năm 1993. Luật đất đai năm 2003 có nhiều đổi mới cơ bản và toàn
diện về các mối quan hệ đất đai, trong đó có các quan hệ đối với đất lâm
nghiệp. Luật bảo vệ và phát triển rừng cũng cần được sửa đổi, bổ sung
một cách cơ bản để phù hợp với hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Luật bảo vệ và phát triển rừng (Luật số 29/2004/QH11) được
Quốc hội Khoá XI kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004,
có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2005 có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng
các yêu cầu mới đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế, ổn định xã hội của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biến Luật bảo vệ và phát triển
rừng (năm 2004) và cung cấp tài liệu cho các cơ quan, đoàn thể, doanh
nghiệp, các nhà chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp và các
hoạt động liên quan đến sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng, Nhà xuất
bản ….. phối hợp với Vụ Pháp chế Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn xuất bản cuốn sách “Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004”.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Tháng 12 năm 2004
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
4
Lời cảm ơn
Từ năm 1999, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được Quốc hội
và Chính phủ giao nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ và phát triển rừng năm
1991. Bộ trưởng - Trưởng Ban soạn thảo dự án Luật đã giao Vụ Pháp chế (trước
đây là Phòng Pháp chế trực thuộc Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) thông qua Tổ biên tập dự án Luật là đầu mối phối hợp với các cơ quan, đơn
vị, chuyên gia trong và ngoài ngành để thực hiện nhiệm vụ này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự cộng tác, giúp đỡ, tham gia tích cực
và có hiệu quả của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn trong quá trình sửa đổi, bổ sung và xây dựng Luật bảo vệ và phát
triển rừng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI
thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 (Luật số 29/2004/QH11).
Chúng tôi bầy tỏ sự cảm ơn và lòng kính trọng đặc biệt đến đồng chí Lê
Huy Ngọ - Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng, nguyên
Trưởng Ban soạn thảo dự án Luật, Tiến sĩ Cao Đức Phát - Bộ trưởng và các
đồng chí lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã trực tiếp và thường
xuyên chỉ đạo các hoạt động của Tổ biên tập, phối hợp với các cơ quan của
Quốc hội và Chính phủ để dự án Luật hoàn thành đúng tiến độ, đáp ứng được
các nhu cầu bảo vệ và phát triển rừng nói riêng và phát triển nông nghiệp và
nông thôn nói chung trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chúng tôi chân thành cảm ơn ông Nguyễn Văn Yểu – Phó Chủ tịch
Quốc hội, các vị lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội và các chuyên gia của Văn
phòng Quốc hội đã giúp đỡ tích cực, có hiệu quả trong quá trình xây dựng Luật
bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 phù hợp với hệ thống pháp luật chung của
Nhà nước; đặc biệt cảm ơn ông Cư Hoà Vần – Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của
Quốc hội khoá X đã đề xuất sáng kiến sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ và phát triển
rừng.
Chúng tôi chân thành cảm ơn các cơ quan, tổ chức, các nhà khoa học
lâm nghiệp, cán bộ quản lý và những người lao động lâm nghiệp đã giúp đỡ
chúng tôi trong quá trình khảo sát thực tế, đóng góp những cơ sở lý luận khoa
học và kinh nghiệm thực tiễn để xây dựng Luật.
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
5
Chúng tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ kịp thời, hiệu quả của Dự án
Hỗ trợ cải cách hành chính lâm nghiệp (REFAS) và các chương trình, dự án quốc
tế khác đã giúp Tổ biên tập hoàn thành các nhiệm vụ khảo sát, hội thảo, biên tập
Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004 đúng tiến độ và REFAS đã hỗ trợ tích cực
cho việc xuất bản cuôn sách này.
Trong giai đoạn tiếp theo chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự quan
tâm giúp đỡ của các quý vị và quý cơ quan để triển khai Luật bảo vệ và phát triển
rừng thực sự đi vào cuộc sống.
Vụ Pháp chế & Tổ biên tập
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
6
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
7
A. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
NĂM 1991
Ngày 14 tháng 12 năm 2004, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số
25/2004/L-CTN công bố Luật bảo vệ và phát triển rừng (Luật số
29/2004/QH11) đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Khoá XI kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm
2004, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2005. Đây là một đạo luật
quan trọng, thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về bảo vệ và phát triển rừng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Nhà nước đã ban
hành Luật bảo vệ và phát triển rừng (1991) và hệ thống các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật. Qua hơn mười hai năm triển khai thực
hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, việc quản lý nhà nước
bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ngày càng
có hiệu lực và hiệu quả. Nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp
để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về rừng và đất lâm
nghiệp trong phạm vi cả nước đã được ban hành và áp dụng. Do
vậy đã hạn chế được tệ chặt phá rừng, khai thác động vật rừng,
thực vật rừng trái phép. Việt Nam đã tham gia Công ước về buôn
bán các động vật, thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng
(CITES), Công ước đa dạng sinh học, Công ước chống sa mạc hoá
và nhiều điều ước quốc tế khác có liên quan đến rừng và môi
trường, đã từng bước xây dựng và hoàn thiên hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Chính quyền các cấp
nơi có rừng, các ngành chức năng như lâm nghiệp, công an, quân
đội, toà án, viện kiểm sát cùng với chủ rừng và các tổ chức chính
trị - xã hội … đã từng bước đưa công tác quản lý, bảo vệ rừng, giao
đất giao rừng, khai thác, vận chuyển, kinh doanh lâm sản vào nền
nếp; việc trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng được đẩy mạnh.
Rừng đã từng bước được khôi phục, độ che phủ của rừng trên phạm
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
8
vi cả nước tăng từ 28,1% vào năm 1992 lên trên 36,1% vào năm
2003. Tuy nhiên do các nhu cầu của sản xuất và đời sống gia tăng
mạnh mẽ, do sức ép của dân số cũng như tình trạng còn kém phát
triển của kinh tế - xã hội vùng nông thôn, miền núi, do ý thức pháp
luật và nhận thức về rừng của một bộ phận nhân dân còn chưa cao,
hệ thống pháp luật còn chưa chặt chẽ, nên tình trạng phá rừng,
buôn bán trái phép lâm sản, chống người thi hành công vụ bảo vệ
rừng ở một số nơi vẫn gia tăng.
Bước sang thiên niên kỷ mới, tình hình phát triển về kinh tế -
xã hội của đất nước có nhiều thay đổi, nhiều quy định trong Luật
bảo vệ và phát triển rừng (1991) không còn phù hợp, chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới của đất nước và công tác quản lý, bảo vệ,
phát triển rừng:
Luật bảo vệ và phát triển rừng được xây dựng trong những
năm đầu của thời kỳ đổi mới. Một số nội dung của Luật vẫn còn thể
hiện tính bao cấp, chưa thể hiện rõ quan điểm và tư tưởng đổi mới
của Đảng chuyển mạnh từ lâm nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp
nhân dân. Việc phân công trách nhiệm quản lý về rừng cho các cấp,
các ngành chưa phù hợp. Trên thực tế ở nhiều nơi chưa xác định rõ
chủ rừng cụ thể; việc sản xuất, kinh doanh rừng chưa đem lại lợi
ích thiết thực và bền vững cho người dân; đời sống của nhân dân
vùng rừng núi còn gặp nhiều khó khăn … Từ đó, nhiều vấn đề thực
tiễn đặt ra hiện nay đòi hỏi phải được quy định trong Luật để bảo
đảm quản lý rừng bền vững như quyền sở hữu rừng, quyền sử dụng
rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thuộc các thành phần kinh tế.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay, Quốc hội đã ban
hành nhiều luật mới như Luật đất đai (sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1993, 1998, 2001 và gần đây nhất đã ban hành Luật đất đai
năm 2003), Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật bảo vệ môi
trường, Luật Tài nguyên nước, Bộ Luật Hình sự, Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Phòng cháy, chữa cháy,
Luật Di sản văn hoá, Bộ Luật Tố tụng hình sự và nhiều luật khác.
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
9
Nội dung quy định trong các luật trên có nhiều điểm mới liên quan
đến bảo vệ và phát triển rừng.
Từ thực tế yêu cầu của công tác bảo vệ và phát triển rừng, cơ
quan quản lý nhà nước các cấp đã ban hành nhiều văn bản dưới
luật, tổ chức thực thi có hiệu quả, nay cần rà soát, hệ thống hoá và
quy định trong Luật bảo vệ và phát triển rừng để bảo đảm hiệu lực
pháp lý cao hơn.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ và phát triển rừng là rất
cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tăng cường quản lý nhà
nước về bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ rừng, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của đất
nước.
Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong việc sửa đổi Luật bảo vệ
và phát triển rừng là:
Một là thể chế hoá những chủ trương, đường lối đổi mới của
Đảng, cụ thể hoá Hiến pháp, đồng bộ với Luật đất đai năm 2003 và
các văn bản pháp luật liên quan, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện
đại hoá là: “Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ
của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và
lâu dài theo hướng xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm
cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp lâm
nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ để định canh, định
cư, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn chặn
nạn đốt phá rừng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ trụ
mỏ, nguyên liệu cho công nghiệp bột giấy, công nghiệp chế biến gỗ
và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu; nâng cao giá trị sản phẩm rừng”
(Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2001, trang 171)
Hai là kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật bảo vệ
và Phát triển rừng năm 1991, bổ sung những quy định mới đáp ứng
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
10
với những yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với các điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
Ba là quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước ở trung ương và các cấp chính quyền địa phương trong việc
bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời xác định cụ thể các loại chủ
rừng và quy định rõ các quyền, nghĩa vụ của chủ rừng; tạo động lực
kinh tế để thu hút mọi tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ, phát triển
rừng; góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống
cho đồng bào sống ở vùng rừng núi và người lao động làm nghề
rừng.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ và phát triển rừng được
triển khai thực hiện từ năm 1999. Thời gian đầu chủ trương chỉ sửa
đổi, bổ sung một số điều. Đến năm 2003 Nhà nước ban hành Luật
đất đai mới, đã sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện và thay thế Luật
đất đai cũ, nên việc sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ và phát triển rừng
cũng phải sửa đổi, bổ sung mạnh mẽ, tạo nên sự đồng bộ và thống
nhất pháp lý cao giữa pháp luật về đất đai và pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (sau đây
gọi tắt là Luật 2004) gồm 8 chương, 88 điều. So với Luật bảo vệ và
phát triển rừng năm 1991 (sau đây gọi tắt là Luật 1991), Luật 2004
đã giảm 1 chương và tăng 34 điều. Tất cả các điều trong Luật 2004
đều được sửa đổi, bổ sung, viết lại. Nội dung Luật bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004 bao gồm:
Chương 1 - Những quy định chung: gồm 12 điều từ Điều 1
đến Điều 12 quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng;
phân loại rừng, chủ rừng; quyền của Nhà nước đối với rừng; nội
dung, trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng;
nguyên tắc và chính sách về bảo vệ và phát triển rừng; nguồn tài
chính để bảo vệ và phát triển rừng; những hành vi bị nghiêm cấm.
Chương 2 - Quyền của nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng: gồm 23 điều từ Điều 13 đến Điều 35 quy định về quy hoạch,
kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; giao rừng, cho thuê rừng, thu
hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng; giao rừng cho công công
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
11
dân cư thôn; đăng ký quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản
xuất là rừng trồng, thống kê và kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài
nguyên rừng; giá rừng.
Chương 3 - Bảo vệ rừng: gồm 9 điều từ Điều 36 đến Điều 44
quy định về trách nhiệm bảo vệ rừng và nội dung công tác bảo vệ
rừng.
Chương 4 - Phát triển rừng, sử dụng rừng: gồm 14 điều từ
Điều 45 đến Điều 58 quy định về nguyên tắc phát triển, tổ chức
quản lý và khai thác sử dụng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và
rừng sản xuất.
Chương 5 - Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng: gồm 20 điều
từ Điều 59 đến Điều 78 quy định quyền, nghĩa vụ chung của chủ
rừng cũng như quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với từng loại chủ rừng
khi được giao, được thuê rừng, đất trồng rừng để sản xuất, kinh
doanh lâm nghiệp.
Chương 6 - Kiểm lâm: gồm 5 điều từ Điều 79 đến Điều 83
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, chế độ,
chính sách đối với kiểm lâm, việc chỉ đạo, điều hành lực lượng
kiểm lâm.
Chương 7 - Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ và phát triển rừng: gồm 3 điều từ Điều 84 đến Điều 86
quy định việc giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm và bồi thường
thiệt hại liên quan đến bảo vệ và phát triển rừng.
Chương 8 - Điều khoản thi hành: gồm Điều 87 và Điều 88
quy định hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành Luật.
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
12
B. NHỮNG SỬA ĐỔI CƠ BẢN CỦA
LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
NĂM 2004
I. Nguyên tắc, chính sách, nguồn tài chính để bảo vệ và
phát triển rừng
1. Nguyên tắc bảo vệ và phát triển rừng.
Điều 17 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định "rừng núi" cùng các tài sản khác mà pháp luật quy
định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Quy định này
hoàn toàn đúng đối với rừng tự nhiên và các rừng khác được gây
trồng, nhận chuyển nhượng … bằng ngân sách nhà nước.
Từ ngày 28 tháng 11 năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
đã phát động Tết trồng cây và khởi đầu cho phong trào trồng cây
gây rừng của mọi tầng lớp nhân dân - ngày này (28 tháng 11 hàng
năm) đã được Thủ tướng Chính phủ quy định là Ngày lâm nghiệp
Việt Nam tại Quyết định số 380/TTg ngày 26 tháng 6 năm 1995.
Phong trào trồng cây nhân dân do Bác Hồ phát động đã được toàn
dân hưởng ứng, tạo nên nhiều diện tích rừng không phải do Nhà
nước đầu tư ngân sách để gây trồng, góp phần che phủ đất trống,
đồi núi trọc, phòng hộ, tăng năng suất cây trồng, cung cấp gỗ, củi,
nguyên liệu công nghiệp góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống cho người trồng cây, trồng rừng.
Tuy nhiên rừng là một yếu tố quan trọng của môi trường
sống, ngoài việc cung cấp lâm sản còn có các tác dụng phi thường
khác như chắn gió, chống xói mòn đất, chống cát bay, chống sóng,
điều hoà nguồn nước, điều hoà khí hậu, giảm hiệu ứng nhà kính …
không chỉ có tác dụng trong từng địa phương mà có ý nghĩa đối với
quốc gia, khu vực và toàn cầu. Do vậy việc xác định các nguyên tắc
bảo vệ và phát triển rừng để điều chỉnh mọi hoạt động có liên quan
là một việc có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ các chính sách và
quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
----------------------------------------------------------------------------- Những sửa đổi cơ bản của Luật bảo vệ và phát triển rừng – năm 2004
13
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 không có điều,
khoản nào quy định về nguyên tắc bảo vệ và phát triển rừng.
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã quy định 5
nguyên tắc bảo vệ và phát triển rừng tại Điều 9 (Nguyên tắc bảo vệ
và phát triển rừng):
Một là các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm
phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an
ninh; phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược
phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản lý
rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Hai là bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân. Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải
bảo đảm nguyên tắc quản lý rừng bền vững; kết hợp bảo vệ và phát
triển rừng với khai thác hợp lý để phát huy hiệu quả tài nguyên
rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh phục
hồi rừng, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng hiện có; kết hợp
lâm nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng
kinh tế gắn với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản nhằm nâng
cao giá trị sản phẩm rừng.
Ba là việc bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Việc giao, cho thuê, thu hồi, chuyển
mục đích sử dụng đất và rừng phải tuân theo các quy định của Luật
này, Luật đất đai và các quy định khác của pháp luật có liên quan,
bảo đảm ổn định lâu dài theo hướng xã hội hoá nghề rừng.
Bốn là bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước với chủ rừng;
giữa lợi ích kinh tế của rừng với lợi ích phòng hộ, bảo vệ môi
trường và bảo tồn thiên nhiên, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài; bảo đảm cho người làm nghề rừng sống chủ yếu bằng nghề
rừng.
Năm là chủ rừng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình
trong thời hạn sử dụng rừng theo quy định của Luật này và các quy