Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu LUẬN VĂN: Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LUẬN VĂN:
Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành
từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việt Nam
Lời mở đầu
Giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh luôn là một bài toán lớn
đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói
riêng và các cơ quan, các cấp ngành liên quan, đặc biệt phải kể đến ngành Ngân
hàng.Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước với chủ
trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chú trọng phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của khối kinh tế này nhưng cũng đặt
họ trước nhiều khó khăn lớn về vốn.Bởi bản thân các doanh nghiệp trong quá trình phát
triển, bên cạnh việc tự huy động vốn bản thân cùng sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng Nhà Nước
thì vốn tín dụng ngân hàng đầu tư là một bộ phận rất quan trọng. Song họ thường xuyên
gặp phải những trở ngại trong quá trình xin cấp tín dụng ngân hàng để phát triển sản xuất
kinh doanh. Chính vì thế, một thực trạng đang đặt ra hiện nay đó là sự mất cân đối lớn giữa
cung về vốn ngân hàng và cầu về vốn của doanh nghiệp. Để lý giải cho thực trạng trên, một
trong những nguyên nhân khá quan trọng đang được xem xét xuất phát từ chính các NHTM
và các văn bản liên quan đến chế độ chính sách của Nhà nước. Về phía Ngân hàng, bảo
đảm an toàn trong tăng trưởng tín dụng là một nguyên tắc hết sức quan trọng để đảm bảo
sự lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải quản lý
khoản tiền cho vay một cách hữu hiệu, trong đó TSTC được xem là một phần quan trọng
để đảm bảo khoản vay của ngân hàng. Hơn nữa trong quy chế cho vay của NHNN,thường
yêu cầu các NHTM phải cho vay có TSTC. Tuy vậy, đòi hỏi về TSTC đối với nhiều doanh
nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xét duyệt cho vay lại là một yêu
cầu khó có thể thực hiện bởi bản thân các doanh nghiệp này hầu như không có tài sản để
đem thế chấp hoặc giá trị TSTC là rất nhỏ, không đủ đảm bảo cho khoản vay. Để giải quyết
những khó khăn đó, NHNN đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng TS hình thành từ
vốn vay làm TSTC. Và thực sự biện pháp đảm bảo tiền vay này đã phát huy được những
lợi thế nhất định đối với cả Ngân hàng và các khách hàng, nhất là khối doanh nghiệp ngoài
quốc doanh qua một số năm đi vào thực hiện . Tuy nhiên, bên cạnh đó loại hình cho vay
này cũng bộc lộ nhiều vấn đề nảy sinh, dẫn đến những khoản nợ quá hạn, ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng, gây nên tâm lý dè dặt của
Ngân hàng khi quyết định cho vay, do đó dẫn đến không ít những trở ngại cho các doanh
nghiệp khi có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để giảm bớt khó khăn
đối với những khoản nợ không thu hồi được thì việc chọn hướngxử lý loại tài sản thế chấp
này là hết sức quan trọng. Do đó trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (Hội sở Hà Nội )-VP Bank-,em đã
chọn đề tài :
Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam làm đề tài nghiên cứu. Đề tài nhằm
đưa ra giải pháp có tính đồng bộ nhằm xử lý TSTC hình thành từ vốn vay, thu hồi khoản
nợ quá hạn, nâng cao chất lượng khoản cho vay này để vừa góp phần từng bước giải quyết
nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, vừa tăng trưởng dư nợ tín dụng, đảm bảo đúng quy
định của NHNN và hơn hết là duy trì và phát triển khách hàng tiềm năng của Ngân hàng.
Đề tài gồm : Lời mở đầu
Nội dung : 3 Chương
Chương 1: Những nguyên lý chung về TSTC và Cho vay có TSTC trong hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại
cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
Kết luận
Nội dung
Chương 1:Nguyên lý chung về TSTC và xử lý TSTC trong hoạt động kinh doanh của
NHTM.
A: Tín dụng Ngân hàng và bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM.
I: Khái quát về tín dụng Ngân hàng.
Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, NHTM đảm bảo đồng thời nhiều
chức năng khác nhau nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh chức năng trung gian
thanh toán, chức năng tín dụng là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của NHTM và có ý
nghĩa đặc biệt đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các chức năng của NHTM tác
động qua lại lẫn nhau thông qua các nghiệp vụ ngân hàng:Nghiệp vụ huy động vốn ;
Nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ trung gian khác. Trong đó nghiệp vụ tín dụng chiếm
vị trí quan trọng, thể hiện khả năng của các ngân hàng trong việc tìm kiếm lợi nhuận trong
nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, các
doanh nghiệp và cá nhân thông qua việc Ngân hàng vay vốn từ các nguồn nhàn rỗi và cung
cấp cho nơi cần trong một thời gian nhất định.Đến thời hạn do hai bên quy định, Ngân
hàng sẽ nhận được vốn và lãi.
Thông qua nghiệp vụ này, Ngân hàng với tư cách nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi
sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.Nhờ vậy, tín dụng ngân
hàng vừa giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở
rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế và
đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể.
1; Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng có những đặc trưng sau:
Thứ nhất: Sự tin tưởng tín nhiệm giữa Ngân hàng và khách hàng. Phải có sự tin tưởng này
thì quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Nghĩa là người đi vay phải có uy tín, làm ăn hiệu
quả. Để có sự tin tưởng này, Ngân hàng phải thực hiện điều tra, phân tích khách hàng, nhất
là những khách hàng mới có quan hệ tín dụng lần đầu.
Thứ hai: Tính thời hạn của quan hệ tín dụng: Thời hạn tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào đặc
điểm luân chuyển vốn của đối tượng vay, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào thời hạn huy động
vốn của Ngân hàng. Tính thời hạn đã thúc đẩy người vay có trách nhiệm lo lắng, quan tâm
tới đồng vốn mà họ đã vay để sao cho có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho Ngân
hàng.
Thứ ba: Tính hoàn trả: Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến đặc trưng này. Muốn vậy, trước
khi Ngân hàng cho vay, Ngân hàng cần xem xét, kiểm tra , đánh giá về khách hàng xem có
đủ điều kiện cho vay không. Ngoài ra còn phải có những kiến thức tổng hợp về tình hình
xã hội để tư vấn cho khách hàng về hoạt động sản xuất kinh doanh của họ và quan trọng là
sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra đối với đồng vốn cho vay.
2; Những nguyên tắc tín dụng cơ bản.
Tín dụng Ngân hàng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản.
Nguyên tắc thứ nhất: Tiền vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi vay. Đây là nguyên
tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của Ngân hàng là nguồn vốn huy động của
khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà Ngân hàng tạm thời quản lý
và sử dụng, Ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ
yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng
đến khả năng hoàn trả của Ngân hàng.
Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần cho vay Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp.
Khi đến kì hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho Ngân hàng, nếu không Ngân hàng
sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không
đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, Ngân
hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
Nguyên tắc thứ hai: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các đơn vị kinh tế, tín dụng cũng phải đáp
ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn
vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng đúng mục đích không
những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Hiệu quả của nó
trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng
sản phẩm, dịch vụ, đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Để thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền
vay đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được Ngân hàng thẩm
định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, Ngân hàng được quyền thu nợ
trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
Nguyên tắc thứ ba: Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.
Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều dạng:Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay; Tài
sản đảm bảo là tài sản của người đi vay ; Đảm bảo bằng tín chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ
3.
Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn vốn
khác dể thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản.
Trong công việc kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với vốn vay lưu động,
hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung, dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng,
nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản
thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác.
Khi đánh giá hoạt động khách hàng vay, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở
vững chắc thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý dể có thêm một nguồn thu
nợ thứ hai. Nguồn thu nợ này bao gồm giá trị TSTC, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ban xuất
mở rộng.
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây
không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất , hay nói cách khác nó không phải mang tính
nguyên tắc. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn hết sức đa
dạngvà phức tạp, vì thế mọi dự đoán rủi ro của ngân hàng đều mang tính tương đối.Trong
môi trường kinh doanh như vậy,đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế
của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi
trường kinh doanh, tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách chắc chắn,
đồng thời có cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của
người vay.
3; Rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, dưới giác độ là một tổ chức kinh doanh, NHTM cũng chịu tác động rất lớn từ
môi trường kinh tế-xã hội-chính trị-luật pháp-cạnh tranh, làm phát sinh những rủi ro không
lường trước được, do đó tác động sai lệch và đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh Ngân
hàng. Một trong những rủi ro thường xảy ra và có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân
hàng là rủi ro tín dụng.
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động Ngân hàng, cho vay bao giờ cũng gồm rủi ro và xảy ra
mất mát. Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân hàng ở
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng Ngân hàng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu
của các Ngân hàng.Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được quan tâm không
chỉ ở phạm vi ngân hàng mà cả trong toàn nền kinh tế. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu
được nợ khi đến hạn.Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề ngân hàng.
Các Ngân hàng luôn tìm cách cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất
có thể có ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến
hoạt động cho vay như: Sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ lâu dài,
quy định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dù vậy, không một
Ngân hàng nào nghĩ được hết mọi bất ngờ khi viết ra những quy định hạn chế vào một hợp
đồng cho vay, sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định