Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Luận văn: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xó hội ở
PREMIUM
Số trang
107
Kích thước
791.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1242

Tài liệu Luận văn: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xó hội ở

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Luận văn

Tác động của đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI) tới

phát triển kinh tế - xó hội ở

tỉnh Bình Dương

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào

việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân

sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn

vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát

triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với

nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực,

nâng cao mức sống cho người lao động,...

Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông

tin đại chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp

nước ngoài. Một số ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã

tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng, khách sạn, du lịch và những ngành

công nghiệp sử dụng nhiều lao động, chưa có tỷ lệ thích đáng cho các ngành

công nghệ cao và nông nghiệp. FDI đưa vào Việt Nam nhiều máy móc, thiết

bị lạc hậu đã qua sử dụng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xảy

ra một số tranh chấp lao động mà biểu hiện là tình trạng ngược đãi công nhân,

vi phạm nhân phẩm người lao động, cường độ làm việc quá căng thẳng... đã

dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Cán bộ Việt Nam trong các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn ở vị trí thứ yếu. Một số doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng...

Không thể phủ nhận thành tựu đã đạt của đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào Việt Nam trong những năm qua, song nó đã tạo ra một số vấn đề không

lành mạnh và cần khắc phục. Nhận thức đúng mức về những vấn đề nảy sinh để

có phương hướng chỉ đạo tiếp là cực kỳ quan trọng nếu chúng ta muốn Việt

Nam trở thành nơi thu hút ngày càng nhiều hơn vốn FDI.

Trong tình hình đó, Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn

đầu tư FDI nhiều nhất cả nước cũng không tránh khỏi những tác động tích cực

và hạn chế của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để có căn cứ xây

dựng và điều chỉnh chính sách thì việc nghiên cứu, đánh giá được những tác

động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong giai

đoạn vừa qua là một việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, vấn đề: " Tác động

của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh

Bỡnh Dương " được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm đóng góp

một phần nhỏ trong việc xây dựng quê hương Bình Dương trong thế kỷ 21.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề FDI, trên từng khía cạnh khác nhau đã có nhiều tác giả và các

công trình nghiên cứu. Ở Việt Nam, đã có:

Luận án tiến sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh

tế ở Việt Nam" của Mai Văn Lộc (1994).

Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế ở

Đồng Nai - phương hướng và giải pháp" của Đỗ Thị Ngân Giang (2000).

Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng

và giải pháp", của Nguyễn Thanh Tịnh (2003).

Luận văn cử nhân chính trị: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp" của Trương Đăng Hùng

(2004).

Đề tài cấp bộ, cấp cơ sở: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm thu

hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ

nhiệm đề tài PTS. Nguyễn Khắc Thân, cơ quan chủ trì: Khoa Kinh tế chính trị

(5/1994 - 5/1995).

Báo cáo nghiên cứu của Dự án: "Nâng cao năng lực nghiên cứu chính

sách để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ

2001-2010" của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với

tiêu đề: "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở

Việt Nam".

Các công trình khoa học nghiên cứu về FDI ở trên đã nghiên cứu các

vấn đề: thu hút và sử dụng hiệu quả FDI ở Việt Nam và các địa phương,

nhưng chưa có luận văn, luận án thạc sĩ nào nghiên cứu đến tác động của FDI

đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trên góc độ kinh tế chính trị.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

* Mục tiêu luận văn:

Nghiên cứu tác động FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình

Dương và trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp để phát huy tác

động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã

hội ở tỉnh Bình Dương trong quá trình hội nhập kinh tế.

* Nhiệm vụ của luận văn:

- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của FDI đối với

phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bình Dương nói

riêng.

- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát

triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương chỉ ra những tác động tích cực cần

phát huy và tác động không lành mạnh của FDI cần khắc phục và nên tránh.

Nguyên nhân của những tác động đó.

- Trình bày các phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực

và hạn chế những ảnh hưởng không lành mạnh của FDI đến phát triển kinh tế

- xã hội ở tỉnh Bình Dương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, luận văn này

không nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ tập trung

nghiên cứu vấn đề tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình

Dương vì đó là yếu tố quyết định đến việc xây dựng, điều chỉnh chính sách

thu hút FDI và tối đa hoá lợi ích mà FDI mang lại trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan

điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kế thừa kết

quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.

- Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương

pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá.

6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích, đánh

giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình

Dương, từ đó làm nổi rõ sự cần thiết phải phát triển mạnh mẽ những tác động

tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội và phòng tránh những tác động tiêu

cực. Sao cho nền kinh tế của Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung

tăng trưởng nhanh và bền vững.

Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những phương hướng, giải

pháp cơ bản phát triển những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế

- xã hội ở tỉnh Bình Dương.

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan

tham mưu của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bình Dương và các cơ quan hữu trách,

dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường học, cơ sở đào tạo có liên quan

đến FDI trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ VAI TRÒ CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. FDI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1.1. Khái niệm FDI và phát triển kinh tế - xã hội

1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ

đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc

dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn

đầu tư. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp là: các chủ đầu tư nước ngoài

phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ thuộc theo quy định chung

của Luật đầu tư từng nước. Ví dụ, Luật đầu tư của Việt Nam quy định "số vốn

đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự

án", hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định "phần của bên đối tác

nước ngoài không dưới 5% tổng số vốn đầu tư" [51, tr.32-33]. Trong khi đó ở

Hàn Quốc luật quy định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định.

Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn

pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định

sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được

thực hiện dưới hình thức: đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới, mua lại toàn

bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động, mua cổ phần để thôn tính hoặc sáp

nhập.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện từ thời tiền tư bản. Các công ty

của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong

lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu Á để khai thác đồn

điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng

sản nhằm cung cấp các nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc.

Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới thì hoạt động đầu tư ra nước

ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to lớn hơn. Trong

thế kỷ 19, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước

công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản

khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo

nhận định của Lênin, trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng

của chủ nghĩa tư bản" thì việc xuất khẩu tư bản đã trở thành đặc trưng cơ bản

của sự phát triển mới nhất về kinh tế trong thời kỳ "đế quốc chủ nghĩa". Tiền

đề của việc xuất khẩu tư bản là: tư bản thừa xuất hiện trong các nước tiên tiến.

Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách

quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ

xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của

sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc

gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường khi

nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước

không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì lợi thế so sánh ở

trong nước không như trước nữa. Để tăng cường lợi nhuận, các nhà tư bản ở

các nước tiên tiến đã thực hiện xuất khẩu tư bản. Vì ở đó các chủ đầu tư nước

ngoài khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: tài nguyên, lao động, thị

trường... để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với các tập đoàn kinh

tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp thực hiện bành

trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí lợi

nhuận... thông qua hoạt động "chuyển giá". Giảm chi phí kinh doanh khi đặt

trụ sở sản xuất, dịch vụ gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ.

Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ

sở kinh doanh nằm "trong lòng" các nước thực thi chính sách bảo hộ mậu

dịch. Đầu tư trực tiếp cho phép các chủ đầu tư tham dự trực tiếp kiểm soát và

điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư.

Thông qua hoạt động trực tiếp đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào

quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi chính sách mở cửa kinh tế theo

cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của các chủ nhà.

Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc

bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng

chính Lênin đưa ra chính sách "kinh tế mới" đã nói rằng: Những người cộng sản

phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư

bản thông qua hình thức "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này

nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát

triển kinh tế như: khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước

thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức

đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng

được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp

thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư

nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất

những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước... Sự cạnh tranh,

ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích

thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và đâu là nhân tố

quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án FDI góp phần

giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với những ưu

điểm trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn tự thân

vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát

triển.

Mặt khác, mức độ "bóc lột" của các nước tư bản còn tuỳ thuộc vào điều

kiện kinh tế chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây

hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật

của chính họ, thì ngày nay các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có

chủ quyền, hoạt động đầu tư nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý

của Chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế, nếu các Chính phủ của nước chủ nhà

không phạm phải những sai lầm của quản lý vĩ mô thì có thể hạn chế được

những thiệt hại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp nước

tiếp nhận đầu tư [58, tr.36]

Lợi thế Mô tả

Vốn Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp

trong nước

Trình độ

quản lý

Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự

báo và xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn

Công nghệ Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ

vào sản xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và

áp dụng trong sản xuất

Marketting Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối

sản phẩm

Mua nguyên

vật liệu

Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật

liệu phục vụ cho quá trình sản xuất

Thoả thuận

với Chính phủ

Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu

đãi từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư

1.1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội

Phát triển là quá trình qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu đạt tới

chỗ thoả mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa

rộng, "xã hội" bao gồm cả các khía cạnh như "chính trị" và "phát triển con người".

Nếu như trước đây nói đến thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, người ta chỉ

tập trung vào tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế mà bỏ qua những yếu tố

khác, thì ngày nay quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội được đề cập ở trên đã

có những thay đổi căn bản. Bên cạnh yếu tố phát triển kinh tế nhanh và chất

lượng, thì các vấn đề khác như phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đã trở thành

những thành phần cơ bản của quá trình phát triển. Phát triển kinh tế - xã hội với

tốc độ nhanh bền vững và chất lượng cao đang dần trở thành một vấn đề có tính

cấp bách, vừa có tính chiến lược đối với tất cả các quốc gia.

Công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ khi Đại hội VI của Đảng

(12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước đến nay đã trải qua gần

20 năm. Một trong những nội dung đổi mới then chốt là chuyển nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ

thể của nước ta. Kể từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước

ngày càng đi vào chiều sâu, đồng thời quan niệm về con đường phát triển của

nước ta cũng từng bước được định hình ngày càng rõ nét. Đại hội VII của

Đảng (6/1991) lần đầu tiên đã đưa ra công thức: "Phát triển nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của nhà nước" [14]. Công thức này về sau được Đại hội

VIII của Đảng (6/1996) điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng XHCN" [17]. Tiến lên một bước, Đại hội IX của Đảng

(4/2001) đã điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN" và xem đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ

quá độ lên CNXH. Trong mô hình này, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường

với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng

động hoá và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất

và văn hóa của nhân dân. Đồng thời, chúng ta đề cao vai trò quản lý và điều

tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [18].

Mô hình kinh tế tổng quát được xác định tạo cơ sở rất quan trọng cho

sự hình thành những quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu liên hệ với

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!