Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Luận văn Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Luận văn
Phát triển đội ngũ lao động kỹ
thuật ở thành phố Đà Nẵng -
Thực trạng và giải pháp
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với các yếu tố quyết định sự phát triển của một nền kinh tế như: ý
tưởng, áp dụng công nghệ cao, hạ tầng cơ sở hiện đại, vốn xã hội thì “vốn con
người”, xét đến cùng là quyết định nhất, cách mạng nhất. Ở Việt Nam, Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “con người và NNL là nhân tố
quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”, trong đó
LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL trở thành lực lượng tiên phong trong
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Phát triển đội ngũ LĐKT có ý
nghĩa quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế trong xu thế hội nhập và phát triển.
Đối với thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16 tháng 10
năm 2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã xác định phương hướng phát triển
thành phố đến năm 2020 là: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một
trong những đô thị lớn của cả nước; là trung tâm KT - XH lớn của miền
Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; là
thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải
trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông, tài chính - ngân
hàng; một trong những trung tâm văn hoá thể thao, giáo dục đào tạo và KH -
CN của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc
phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước”.
Để thực hiện mục tiêu đó, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành 12
chương trình hành động trên tất cả các lĩnh vực KT - XH, cải cách hành
chính, an ninh, quốc phòng, xây dựng đảng... và đã tổ chức thực hiện bước
đầu đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, phát triển đội ngũ LĐKT ở thành
phố, chìa khoá của mọi vấn đề, đang là một thực tiễn cần được đầu tư nghiên
cứu, giải quyết ở nhiều cấp độ khác nhau để góp phần trở thành một chương
trình hành động mang tính quyết định, cùng với các giải pháp khác đưa thành
3
phố Đà Nẵng sớm hoàn thành nhiệm vụ trong sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề “Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng -
Thực trạng và giải pháp” là việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lao động là một trong những yếu tố và là nguồn lực cơ bản để tạo ra
sự phát triển của đất nước, đặc biệt là phát triển và sử dụng đội ngũ LĐKT luôn
được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó cần kể đến những công trình sau đây:
- Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến với đề tài khoa học
độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010”.
- Nhóm tác giả Nguyễn Mậu Dựng và tập thể tác giả tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh (phân viện Đà Nẵng, nay là Học viện Chính trị Khu
vực 3) với đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Cơ cấu, chất lượng và xu
hướng biến động của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung”.
- Tác giả Vương Quốc Được với đề tài thạc sĩ “Xây dựng NNL cho CNH,
HĐH thành phố Đà Nẵng”.
- Tác giả Lê Ngọc Trà với đề tài cấp Sở “Quy hoạch tào tạo NNL tỉnh
Bình Thuận giai đoạn 2002-2010”.
- Tác giả Nguyễn Đức Tĩnh với đề tài thạc sĩ “Hoàn thiện quản lý nhà
nước về đào tạo nghề ở nước ta hiện nay”.
- Tác giả Phạm Kim Sơn với đề tài cấp thành phố “Chính sách phát triển
nhân lực và thu hút nhân tài công nghệ thông tin thành phố Đà Nẵng”.
- Tác giả Đỗ Thị Xuân Phương với luận án tiến sỹ kinh tế “Phát triển thị
trường sức lao động giải quyết việc làm”.
- Tác giả Nguyễn Hữu Chí với đề tài thạc sĩ “Những giải pháp về quản lý
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Ở nhiều góc độ, cấp độ nghiên cứu khác nhau, các công trình khoa học
nêu trên đã làm rõ những yêu cầu về lý luận cũng như thực tiễn xoay quanh
nội dung phát triển NNL.
4
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên còn đặt ra cho luận văn
cần phải phát triển thêm một số vấn đề:
- Về lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề liên quan về LĐKT, đặc trưng
của LĐKT, phát triển LĐKT và yêu cầu phát triển LĐKT; LĐKT và nền kinh
tế tri thức; đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo LĐKT trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về thực trạng: Bổ sung phân tích, đánh giá thực trạng cung - cầu
LĐKT, các yếu tố tác động đến phát triển LĐKT.
- Về giải pháp: Bổ sung mô hình, cơ sở dự báo phát triển lao động kỹ thuật.
Đề xuất thêm một số giải pháp phát triển LĐKT theo định hướng thị trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Phân tích, đánh giá tình hình đào tạo, phát triển, sử dụng LĐKT, từ đó đề
ra những giải pháp nhằm phát triển LĐKT của thành phố Đà Nẵng đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH thành phố cũng như toàn vùng và của cả nước.
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển NNL nói chung và
phát triển LĐKT nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển LĐKT ở thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp phát triển LĐKT ở thành phố Đà Nẵng đến năm
2010. Những kiến nghị với Đảng, Nhà nước, chính quyền thành phố trong
việc phát triển LĐKT trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào phát triển nhóm lao động có CMKT ở các
cấp trình độ, hình thức đào tạo khác nhau, mang tính thực hành, được đào tạo
trong hệ thống các cơ sở dạy nghề ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Nền tảng là lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết
của Đảng về lao động, giáo dục, đào tạo, DN.
5
- Trên cơ sở các tài liệu thống kê, điều tra lao động - việc làm hàng năm,
các báo cáo về phát triển LĐKT, các chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước
và chính quyền thành phố trong việc phát triển NNL nói chung, phát triển
LĐKT nói riêng, luận văn sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu.
6. Những đóng góp cơ bản của đề tài
- Về mặt lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đào tạo LĐKT;
quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đào tạo LĐKT; lý luận về LĐKT và
nền kinh tế tri thức; đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo LĐKT
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về thực tiễn: Đóng góp những giải pháp để phát triển LĐKT phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH thành phố Đà Nẵng; luận văn làm rõ thêm xu hướng đào
tạo LĐKT theo định hướng cầu thị trường.
- Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo về phát triển LĐKT để ngành Lao
động-Thương binh và Xã hội giúp Uỷ ban nhân dân thành phố nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về đạo tạo LĐKT, đảm bảo phát triển đội ngũ LĐKT
phục vụ CNH, HĐH thành phố.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 11 tiết.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về LĐKT và vai trò của nó trong quá
trình CNH, HĐH và hội nhập ở nước ta.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ LĐKT ở thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển đội
ngũ LĐKT ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP Ở NƯỚC TA
1.1. LAO ĐỘNG KỸ THUẬT VÀ PHÁT TRIỂN LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP Ở
NƯỚC TA
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của lao động kỹ thuật
Cho đến nay thuật ngữ “LĐKT” còn có những quan niệm khác nhau ở
nhiều tài liệu trong thực tế. Để làm rõ khái niệm “LĐKT” cần tìm hiểu các
khái niệm liên quan:
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam khái niệm: “Lao động giản đơn là
lao động không đòi hỏi phải đào tạo về chuyên môn cũng có thể thực hiện
được một công việc nào đó” và “Lao động lành nghề là lao động có trình độ
chuyên môn được đào tạo, huấn luyện hay qua tích luỹ kinh nghiệm trong
thực tiễn để thực hiện công việc phức tạp mà lao động giản đơn không làm
được” [50, tr.64].
C. Mác đưa ra thuật ngữ “Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”.
Như vậy, LĐKT nằm trong thang, bậc nào từ lao động giản đơn - lao
động lành nghề - lao động phức tạp trong các khái niệm nêu trên là vấn đề cần
nghiên cứu, thống nhất.
Trong điều tra lao động - việc làm thời điểm 01 tháng 7 hàng năm, do Bộ
LĐ-TB&XH và Tổng cục Thống kê tổ chức từ năm 1996 đến nay và trong
các báo cáo thống kê của nhà nước sử dụng chỉ tiêu “ lao động qua đào tạo”
và “lao động qua đào tạo nghề”.
Theo đó, “lao động qua đào tạo” là lao động CMKT, có giải tần rộng,
được tính bao gồm lao động được đào tạo từ sơ cấp/học nghề, công nhân kỹ
thuật có bằng, không bằng trở lên đến đào tạo THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH.
Còn “lao động qua đào tạo nghề” là một bộ phận của “lao động qua đào
tạo”, dùng để thống kê, báo cáo lao động được đào tạo, được cấp bằng nghề,
7
chứng chỉ nghề ở hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục
quốc dân, mà giáo dục nghề nghiệp thì bao gồm đào tạo trung cấp chuyên
nghiệp và DN [32, tr.2].
Như vậy, LĐKT gần đồng nghĩa với lao động qua đào tạo nghề. Nhưng
trong nền kinh tế hiện đại, giáo dục nghề nghiệp còn phát triển đào tạo các
cấp trình độ cao hơn như CĐ kỹ thuật, ĐH kỹ thuật mang tính thực hành và
trong thực tế, công nhân kỹ thuật mặc dù không có bằng nghề, chứng chỉ nghề
nhưng lại có kỹ năng nghề nhất định và có kinh nghiệm trong sản xuất kinh
doanh thì khái niệm “LĐKT” cũng cần mở rộng ra, nghiên cứu thống nhất
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Với cách tiếp cận mới hơn, nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến
với đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn
2001-2010” khái niệm “LĐKT (theo nghĩa hẹp) là loại lao động được đào tạo,
được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề
nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động
và có kỹ năng hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công
nghệ khác nhau, phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp
tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh” [11, tr.21].
Với khái niệm này, LĐKT phải có hai điều kiện:
- Điều kiện 1: Được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong
hệ thống giáo dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Điều kiện 2: Đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ năng
hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công nghệ khác
nhau, phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống sản xuất kinh doanh vẫn tồn tại một đội
ngũ lao động do nhiều nguyên nhân chưa đáp ứng điều kiện 1, nhưng do tích
luỹ kinh nghiệm, họ có thể đáp ứng điều kiện 2. Nếu xem điều kiện 1 là thủ
tục để có thể học thêm, được cấp bằng, chứng chỉ, thì khái niệm “LĐKT” có
thể nghiên cứu mở rộng thêm cho cả đối tượng này.
8
Còn trong “Thuật ngữ LĐ-TB&XH” tiếp cận khái niệm “LĐKT” thực tế
hơn. “LĐKT sản xuất kinh doanh là người lao động có trình độ kỹ năng và kỹ
xảo nhất định thông qua đào tạo hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, đảm
nhiệm được những công việc phức tạp, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật -
công nghệ, có khả năng truyền nghề và DN” [4, tr.15]. Theo khái niệm này,
những người có trình độ kỹ năng và kỹ xảo nhất định thông qua tích luỹ kinh
nghiệm thực tế (không có bằng, chứng chỉ đào tạo) cũng thuộc nhóm LĐKT.
Một điều dễ nhận ra trong khái niệm trên là đã tách bạch ra LĐKT và lao
động quản lý. LĐKT đảm nhiệm những công việc phức tạp, đáp ứng yêu cầu
kỹ thuật - công nghệ, không đề cập đến đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý.
Do đó, cách tiếp cận thuật ngữ “LĐKT” này gần với thực tế thị trường lao
động hơn, nếu xét ở vị trí của lao động trong quá trình sản xuất.
Mặt khác, trong quản trị doanh nghiệp, để định mức hao phí thời gian lao
động, thường phân chia lao động thành lao động công nghệ, lao động phụ trợ,
phục vụ và lao động quản lý. Rõ ràng, LĐKT được xếp vào lao động công
nghệ, là những lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo quy trình
công nghệ nhằm làm biến đổi đối tượng lao động về các mặt hình dáng, kích
thước, cơ lý hoá tính…để sản xuất sản phẩm. Đây là loại lao động chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong các doanh nghiệp và cũng đang cần thiết trong thị trường
lao động.
Như vậy, để tiếp cận với khái niệm “LĐKT” gần nhất vẫn phải gắn với
yêu cầu thị trường lao động. Thị trường lao động chấp nhận thuật ngữ
“LĐKT” ở góc độ vị trí của nó trong quá trình sản xuất, kinh doanh là loại lao
động mang tính thực hành cao, mang tính “chiến đấu” hơn là “chỉ huy”, trực
tiếp điều hành máy móc, thiết bị, công nghệ để tạo ra sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ có ích cho xã hội.
Từ những tìm hiểu, phân tích nêu trên và đồng ý với khái niệm của nhóm
tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến, có thể nêu khái niệm LĐKT ở một
góc độ khác như sau: “LĐKT là loại lao động được đào tạo và cấp bằng hoặc
9
chứng chỉ một nghề nào đó ở các trình độ đào tạo trong hệ thống dạy nghề
của hệ thống giáo dục quốc dân hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, có kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ
luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ, mà thị trường lao động cần nó chủ
yếu là để trực tiếp điều hành máy móc, thiết bị, công nghệ có độ phức tạp
khác nhau để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có ích cho xã hội”.
Thuật ngữ LĐKT theo cách hiểu này cũng rất phù hợp với Quyết định số
201/2001/QĐ-TTG ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Quyết định số
48/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quy hoạch mạng lưới trường DN giai đoạn 2002-2010 và Luật Giáo dục
năm 2005. Theo đó, chủ trương “hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực
hành đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, trong đó chú trọng phát triển đào
tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên
nghiệp vụ có trình độ cao” và “mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật
viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ; liên thông giữa các ngành
nghề, các trình độ đào tạo nghề và với các trình độ đào tạo khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân”.
Ngoài ra, có thể tìm hiểu các khái niệm liên quan trong sơ đồ 1.1.
- Lao động chuyên môn: Là loại lao động được đào tạo và cấp bằng một
ngành chuyên môn nào đó trong phân hệ giáo dục ĐH và sau ĐH của hệ
thống giáo dục quốc dân, có năng lực nghiên cứu, sáng tạo, giải quyết những
vấn đề KH - CN ở trình độ cao, mà thị trường lao động cần họ chủ yếu là đảm
nhiệm những công việc quản lý, những công việc rất phức tạp, những hoạt
động đảm bảo quá trình sản xuất liên tục và hiệu quả (lao động gián tiếp). Họ
là những người quản lý, nghiên cứu, chuyên gia…, được đào tạo mang tính
hàn lâm, coi trọng lý thuyết và có khả năng chuyển sang làm các công việc
của LĐKT thì phải bổ sung hoặc nâng cao kỹ năng thực hành qua chương
trình đào tạo liên thông.
10
Sơ đồ 1.1: Phân loại LLLĐ
- Dạy nghề (đào tạo nghề): Hiện nay, trong tất cả các văn bản pháp quy
của nhà nước, thuật ngữ “DN” hoặc “đào tạo nghề” được dùng rất phổ biến,
đã có truyền thống, điều này cũng phù hợp với tình hình thực tế đất nước, xã
hội đòi hỏi cần phải nhấn mạnh vai trò to lớn của đào tạo nghề nghiệp, trước
yêu cầu đào tạo NNL trực tiếp lao động sản xuất có tay nghề, đáp ứng yêu cầu
phát triển KT - XH. Hơn nữa, cụm từ “đào tạo nghề” thực chất là viết gọn của
cụm từ “giáo dục kỹ thuật và DN" đã được sử dụng ở nền giáo dục nước nhà
từ lâu đời và rất quen thuộc với nhà giáo trong hệ thống giáo dục. Mới đây,
thuật ngữ “DN” theo Điều 5, Luật DN được khái niệm là “hoạt động dạy và
học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
LLLĐ
LĐKT
(thực hành)
Lao động không CMKT
(giản đơn)
LĐKT
(có bằng/chứng chỉ)
LĐKT
(chưa bằng/chứng chỉ)
Dạy nghề
Sơ cấp nghề
Trung cấp nghề
CĐ nghề
Thị
trường
lao
động
(lao
động
trực
tiếp
SXKD)
Lao động chuyên môn
( hàn lâm)
11
người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn
thành khoá học”.
Còn thuật ngữ “đào tạo LĐKT” tuy mới xuất hiện cách đây khoảng 5
năm, nhưng ngày càng làm sáng tỏ hơn chiến lược phát triển giáo dục nghề
nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập, phát triển kinh tế tri
thức. Trong trường hợp còn sử dụng thuật ngữ “DN” hoặc “đào tạo nghề” thì
phải hiểu với nội dung mới, đó là “đào tạo LĐKT” trong hệ thống đào tạo kỹ
thuật thực hành [11, tr.29].
Như vậy, theo các cách tiếp cận và phân tích nêu trên, LĐKT được “nhận
dạng” bởi một số đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, được đào tạo và cấp bằng hoặc chứng chỉ trong phân hệ giáo
dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất. Thực chất đây là
đặc trưng điều kiện để được gọi là LĐKT. Vấn đề đặt ra là trong hệ thống
giáo dục quốc dân thống nhất cần phải phân hệ và có chức năng, nhiệm vụ rõ
ràng cho từng phân hệ. Phân hệ giáo dục nghề nghiệp chủ yếu là đào tạo
LĐKT thực hành ở nhiều cấp trình độ, có thể bao gồm cả ĐH kỹ thuật, công
nghệ, đào tạo ra những kỹ sư thực hành. Mặt khác, bằng cấp, chứng chỉ của
LĐKT phải được công nhận, đánh giá bởi hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề
chuyên nghiệp, có giá trị sử dụng trong phạm vi toàn quốc, khu vực và thế
giới trong xu thế hội nhập kinh tế sâu hơn hiện nay.
Thứ hai, có kiến thức, kỹ năng thực hành kỹ thuật, nghề nghiệp. Đây là
đặc trưng cơ bản của LĐKT và cũng là điều kiện cần để LĐKT có thể tìm
được việc làm phù hợp trong thị trường lao động. Các doanh nghiệp tuyển
dụng LĐKT vào làm việc không chỉ biết nghề, mà đòi hỏi LĐKT phải có kỹ
năng nghề, thực hành, điều khiển máy móc, thiết bị, công nghệ ở mức độ
phức tạp khác nhau trong doanh nghiệp, mà không phải đào tạo lại quá lâu,
gây lãng phí cho doanh nghiệp và xã hội.
Thứ ba, Có khả năng, năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng
của công nghệ trong thị trường lao động. Trong thực tế đời sống xã hội, sự
12
phát triển, biến đổi mạnh mẽ của KH - CN và ứng dụng rộng rãi nó đã cho ra
đời nhiều sản phẩm có giá trị, suy cho đến cùng, nhân tố giữ vai trò quyết
định là trình độ, năng lực của con người, trong đó đội ngũ LĐKT phải là lực
lượng “xung kích”, đón đầu sự biến đổi đó.
Thứ tư, Có thể học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề ở các
trình độ cao hơn bằng chính sách học liên thông. LĐKT có thể nâng cao trình
độ từ bán lành nghề, đến lành nghề và trình độ cao hoặc có thể bổ sung những
phần chưa học để liên thông với phân hệ giáo dục ĐH và trên ĐH trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
1.1.2. Khái niệm và nội dung phát triển lao động kỹ thuật
Như trên đã phân tích, LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL. Phát triển
LĐKT chính là phát triển NNL ở giai đoạn người lao động trưởng thành.
Phát triển NNL là khái niệm rộng. Theo cách hiểu của các nhà kinh tế, là
phát triển tổng thể tiềm năng của con người, bao gồm cả giai đoạn giáo dục,
đào tạo cho con người chưa trưởng thành và đã trưởng thành. LĐKT là bộ
phận của NNL, phát triển đội ngũ LĐKT chỉ giới hạn ở giai đoạn đã trưởng
thành, bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ LĐKT theo hướng thực
hành, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến quan niệm: “Phát triển
LĐKT là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu LĐKT
ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động và của nền KT -
XH trong quá trình CNH, HĐH”[11, tr.37].
Để phát triển LĐKT đáp ứng thị trường lao động hiện nay, một mặt phải
nâng cao tính năng động xã hội của nó, mặt khác thông qua chính sách, cơ
chế và giải pháp, biện pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội để không
ngừng giải phóng tiềm năng vô tận của LĐKT, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế- xã hội. Như vậy, khi xem xét quá trình phát triển LĐKT phải được
xem xét trong mối quan hệ không thể tách rời với quá trình đào tạo, phân bố,
sử dụng hiệu quả và cả quản lý LĐKT.