Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Luận văn: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước”
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG..........................
KHOA……………………
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
Hoàn thiện cơ chế quản lý
tiền lương, thu nhập trong
các doanh nghiệp Nhà nước
1
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì các doanh
nghiệp Nhà nước nổi lên là một bộ phận quan trọng, là chỗ dựa để kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Thông qua nó, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết
vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Trong khi đó một số doanh nghiệp Nhà nước còn có nhiều tiêu cực, làm ăn
không có hiệu quả và thua lỗ. Vì vậy một yêu cầu đặt ra là phải làm sao để các
doanh nghiệp Nhà nước - các doanh nghiệp nắm giữ các ngành, các lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế có thể phát triển một cách vững mạnh và thực sự trở
thành một lực lượng vật chất hùng mạnh.
Để có thể đứng vững và phát huy vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế
thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước phải làm ăn thật sự hiệu quả mà trước
hết là phải quản lý, sử dụng tốt các nguồn đầu vào. Do đó việc quản lý tốt tiền
lương, thu nhập - một trong những chi phí đầu vào là hết sức cần thiết, làm sao
để sử dụng hiệu quả nhất chi phí tiền lương, phát huy được vai trò đòn bẩy kinh
tế của tiền lương.
Trong thời gian vừa qua vấn đề quản lý tiền lương, thu nhập trong các
doanh nghiệp Nhà nước mặc dù đã được nhiều nhà quản lý, nghiên cứu đề cập
đến nhưng do tiền lương một mặt là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, mặt
khác tiền lương trong cơ chế thị trường vẫn là một vấn đề mới nên việc đưa ra
các chính sách, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập
trong các doanh nghiệp Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. Nó có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và
tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, khai thác các khả
năng tiềm tàng từ mỗi người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và được sự giúp đỡ nhiệt tình
của tập thể cán bộ Vụ Tiền lương - Tiền công - Bộ Lao động - Thương binh và
2
Xã hội, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS Phạm Đức
Thành, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương,
thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba phần chính như sau:
Phần I: Ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập
trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Phần II: Thực trạng cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các
doanh nghiệp Nhà nước.
Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý
tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Tôi đã cố gắng trình bày vấn đề một cách khái quát và đầy đủ nhất. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và do kiến thức, kinh nghiệm còn nhiều hạn
chế nên bài viết khó tránh khỏi khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý
kiến góp ý để tôi có thể nắm bắt vấn đề toàn diện hơn nữa và vững vàng hơn,
hoàn thiện hơn trong những lần viết sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
3
PHẦN I
Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG,
THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP VÀ QUẢN LÝ
TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Lý luận chung về tiền lương, thu nhập
1.1. Khái niệm, bản chất của tiền lương, thu nhập
Từ khi sức lao động trở thành hàng hoá, xuất hiện thị trường sức lao động
(hay còn gọi là thị trường lao động) thì khái niệm tiền lương xuất hiện. Tiền
lương là một phạm trù kinh tế - xã hội, thể hiện kết quả của sự trao đổi trên thị
trường lao động.
Để có thể tiền hành sản xuất, cần có sự kết hợp của hai yếu tố cơ bản là
lao động và vốn. Vốn thuộc quyền sở hữu của một bộ phận dân cư trong xã hội,
còn một bộ phận dân cư khác, do không có vốn, chỉ có sức lao động họ phải đi
làm thuê cho những người có vốn, đổi lại họ được nhận một khoản tiền, gọi là
tiền lương( hay tiền công). Như vậy khái niệm "tiền lương" xuất hiện khi có sự
sử dụng sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội một cách có tổ chức
và đều đặn bởi một bộ phận dân cư khác. Tiền lương, tiền công được hiểu là
giá cả sức lao động, nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
Xét trong mối quan hệ lao động thì tiền lương là giá cả sức lao động,
được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người sử dụng sức lao động và
người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường. Vậy giá
cả sức lao động do cái gì quyết định, do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết
hay do cung cầu trên thị trường quyết định? Chúng ta phải hiểu là cơ sở của giá
cả sức lao động là do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết quyết định (còn
gọi là giá trị sức lao động), còn sự biến động trên thị trường của giá cả sức lao
động xoay quanh giá trị sức lao động là do quan hệ cung cầu quyết định.
4
Ta có thể đi đến một khái niệm đầy đủ về tiền lương, tiền lương là biểu
hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả yếu tố sức lao động mà
người sử dụng sức lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân
theo nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của
Nhà nước.
Để có một khái niệm mang tính pháp lý về tiền lương, Điều 55 Bộ luật
Lao động có ghi: "Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong
hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả
công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định".
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở nước ta
hiện nay, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần và
khu vực kinh tế.
Trong thành phần kinh tế Nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp,
tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức của Nhà nước
trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách của Nhà nước và được thể
hiện trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định.
Trong các thành phần và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương
chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị trường và thị trường lao động. Tiền
lương trong khu vực này dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những
chính sách của Chính phủ, nhưng được quyết định theo sự thoả thuận trực tiếp
giữa chủ và thợ, những "mặc cả" cụ thể giữa một bên là làm thuê và một bên đi
thuê thông qua hợp đồng lao động.
Cùng với phạm trù tiền lương, chúng ta còn có các phạm trù khác như:
tiền công, thu nhập, chúng cùng mang bản chất với tiền lương tức là đều biểu
hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
Nhưng giữa tiền lương và tiền công có sự phân biệt nhất định. Trước đây
hai khái niệm này khác nhau về cả nội dung và đối tượng chi trả. Khái niệm tiền
lương được sử dụng trong khu vực quốc doanh, nó là phần trả trực tiếp cho
5
người lao động, ngoài tiền lương được trả bằng tiền người lao động còn nhận
được phần phân phối gián tiếp bằng hiện vật thông qua tem, phiếu và một số
chính sách phúc lợi như chính sách nhà ở, bảo hiểm xã hôi, khám chữa bệnh...
Tiền công được dùng cho các đối tượng còn lại ngoài Kinh tế quốc doanh, nó
bao gồm cả phần trả trực tiếp và gián tiếp cho người lao động. Nói khác đi tiền
công chính là tiền lương đã được tiền tệ hóa.
Hiện nay tiền lương và tiền công dường như không còn sự tách biệt, đều
là giá cả sức lao động nhưng vẫn còn thói quen quan niệm tiền lương gắn với
khu vực kinh tế quốc doanh và tiền công gắn với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh.
Nhưng dù tiền lương hay tiền công cũng đều phải đảm bảo các yêu cầu
sau :
+ Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất sức lao động mở rộng
+ Thúc đẩy tăng năng suất lao động
+ Phù hợp với cung cầu lao động
Trong khái niệm tiền lương cần phân biệt giữa tiền lương danh nghĩa và
tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là số tiền người lao động trực tiếp
nhận được từ phía người sử dụng lao động trả cho công việc họ làm, còn tiền
lương thực tế được hiểu là lượng hàng hóa, dịch vụ cần thiết mà người lao động
hưởng lương mua được bằng lượng tiền lương danh nghĩa của họ.
Như vậy tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào tiền lương danh
nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ cần thiết. Mối quan hệ
giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện thông qua công
thức :
Itldn
Itltt =
Igc
Trong đó :
Itltt : là chỉ số tiền lương thực tế
Itldn : là chỉ số tiền lương danh nghĩa
6
Igc : là chỉ số giá cả
Thu nhập có cùng bản chất với tiền lương nhưng được hiểu với nghĩa
rộng hơn, thu nhập của một người lao động là tất cả những khoản thu mà người
lao động đó nhận được từ việc cung ứng sức lao động của mình, bao gồm cả
tiền lương (hay tiền công), tiền thưởng, tiền ăn ca...
1.2. Các chức năng cơ bản của tiền lương:
1.2.1. Thước đo giá trị của lao động
Do lao động là hoạt động chính của con người và là đầu vào của mọi qúa
trình sản xuất trong xã hội, tiền lương là hình thái cơ bản của thù lao lao động
thể hiện giá trị của khối lượng sản phẩm và dịch vụ mà người lao động nhận
được trên cơ sở trao đổi sức lao động. Hiểu theo cách này, tiền lương bị chi
phối bởi quy luật giá trị và phân phối theo lao động.
1.2.2. Duy trì và phát triển sức lao động
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả mãn
phần lớn các nhu cầu về văn hoá và vật chất của người lao động. Mức độ thoả
mãn các nhu cầu của người lao động phần lớn được căn cứ vào độ lớn của các
mức tiền lương. Độ lớn của tiền lương phải tạo ra các điều kiện cần thiết để bảo
đảm tái sản xuất sức lao động giản đơn và mở rộng sức lao động cho người lao
động và gia đình họ. Hiểu theo cách này tiền lương bị chi phối bởi quy luật tái
sản xuất sức lao động. Có nghĩa là trong một chừng mực nhất định, cần thiết
phải bảo đảm mức lương tối thiểu cho người lao động không phụ thuộc vào
hiệu quả lao động của họ. Bên cạnh đó, các mức tiền lương tăng không ngừng
sẽ có tác động nâng cao khả năng tái sản xuất sức lao động, tạo điều kiện nâng
cao chất lượng lao động và các giá trị khác của người lao động.
1.2.3. Kích thích lao động.
Các mức tiền lương và cơ cấu tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan
trọng để định hướng quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động.
Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, khi khối
lượng các tư liệu sinh hoạt của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào độ lớn
7
của các mức tiền lương thì người lao động sẽ quan tâm trực tiếp đến kết quả
hoạt động của họ. Nâng cao hiệu quả lao động là nguồn gốc để tăng thu nhập,
tăng khả năng thoả mãn nhu cầu của người lao động. Hiểu theo cách này, tiền
lương bị chi phối bởi quy luật không ngừng thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt và
không ngừng nâng cao năng suất lao động. Nguyện vọng không ngừng thoả
mãn các nhu cầu sinh hoạt được thể hiện trong việc không ngừng nâng cao hiệu
quả lao động, không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả lao
động.
1.2.4. Kích thích kinh tế phát triển và thúc đẩy sự phân công lao động trên
toàn bộ nền kinh tế
Trên lĩnh vực vĩ mô, tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá
và dịch vụ cần thiết phải sản xuất. Do vậy, việc tăng các mức tiền lương có tác
dụng kích thích tăng sản xuất, qua đó tăng nhu cầu về lao động.
Bên cạnh đó, sự chênh lệch tiền lương giữa các ngành, các nghề thúc đẩy
sự phân công và bố trí lao động cũng như các biện pháp nâng cao năng suất lao
động.
1.2.5. Chức năng xã hội của tiền lương
Cùng với việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền lương là
yếu tố kích thích không ngừng hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Việc gắn
tiền lương với hiệu quả của người lao đọng và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để đạt được các mức tiền lương cao nhất. Bên
cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội
phát triển theo hướng dân chủ hoá và văn minh hoá.
Tóm lại, tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và là đòn bẩy kinh tế
rất quan trọng đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của nền kinh tế xã hội,
tiền lương được trả đúng đắn có tác dụng: (1) đảm bảo tái sản xuất sức lao
động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho người lao
động; (2) là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động; (3) tạo điều