Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu LUẬN VĂN: Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh Lào-Việt,
PREMIUM
Số trang
73
Kích thước
710.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1783

Tài liệu LUẬN VĂN: Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh Lào-Việt,

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LUẬN VĂN:

Các giải pháp nhằm tăng khả năng

cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh

Lào-Việt, chi nhánh Hà Nội

Lời nói đầu

Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con người không nằm ngoài quy luật, bất

kỳ thành viên nào trên thế giới cũng phải luôn đấu tranh để sinh tồn, mà trong kinh

doanh chúng ta gọi là “cạnh tranh”. Trong kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các

ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt.

Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, sự xuất hiện ngày càng tăng của các

ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh càng làm cho

môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và trong ngành ngân hàng nói riêng

trở nên sôi động và rất khó nắm bắt. Chỉ cần một sự sơ xuất nhỏ trong kinh doanh là

lập tức một ngân hàng có thể bị sụp đổ ngay tức khắc. Do vậy, nắm bắt và vận dụng

được nguyên lý cạnh tranh vào hoạt động của ngân hàng mình như thế nào để có thể

tồn tại và phát triển được là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi phải được nghiên cứu

một cách khoa học.

Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt chi nhánh Hà Nội,

em nhận thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt động kinh

doanh nhưng một số hạn chế hạn chế nghiêm trọng đã giảm khả năng cạnh tranh của

ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng, sau một thời gian

nghiên cứu và thực tập, được sự giúp đỡ của Thạc sỹ Lê Hương Lan và các cán bộ Chi

nhánh LVB, em xin chọn đề tài cho Chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Các giải pháp

nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh Lào-Việt, chi nhánh

Hà Nội”.

Nội dung của đề tài gồm 3 chương như sau:

Chương I: Khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.

Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của Chi nhánh LVB Hà Nội.

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh

cho Chi nhánh LVB Hà Nội.

ChươngII

Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong hoạt động của Ngân hàng thương mại

I. Khái quát về hoạt động của Ngân hàng thương mại

1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực

tiền tệ. Nó được thể hiện thông qua luật ngân hạng Nhà nước, là một tổ chức hoạt động

chủ yếu là nhận tiền gửi dựa trên nguyên tắc hoàn trả tiến hành cho vay, chiết khấu và

các phương thức thanh toán.

2. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại

Theo điều 9- Luật NHNN và điều 20- Luật các Tổ chức tín dụng, hoạt động

ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường

xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng, số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ

thanh toán.

Về cơ bản các nghiệp vụ của NHTM bao gồm:

2.1. Hoạt động huy động vốn.

Đây là nghiệp vụ quan trọng đối với NHTM, bởi lẽ nó là cơ sở ngân hàng ra đời,

tồn tại và phát triển. Hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt vì trên cơ sở vốn huy động

được, ngân hàng mới có thể thực hiện các nghiệp vụ sau này. Do do trong các hoạt

động của NHTM rất cao nên khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng thực hiện các

nghiệp vụ đem lại thu nhập đồng thời đảm bảo được khả năng thanh toán khi có yêu

cầu với chi phí thấp nhất. Hay nói cách khác, ngân hàng phải đảm bảo có được một cơ

cấu tài sản nợ cũng như cơ cấu tài sản có hợp lý.

-Thứ nhất là, hoạt động tạo vốn tự có : Như hầu hết cơ sở kinh doanh khác, để

hoạt động kinh doanh được tiến hành cũng cần phải có một số vốn ban đầu và điều này

đặc biệt đúng trong hoạt động ngân hàng. Tuỳ từng loại hình ngân hàng mà hoạt động

này được hình thành như thế nào.

Đối với NHTM quốc doanh là do Nhà nước cấp đối với NHTM cổ phần là do

các cổ đông đóng góp, đối với ngân hàng liên doanh là do các đơn vị liên doanh đóng

góp.v.v... Vốn tự có của một NHTM ở mức dưới hoặc bằng 10% so với tổng tài sản có.

Nguốn vốn này chiếm một phần không lớn trong tổng nguồn vốn nó lại giữ vai trò

quan trọng trong hoạt động của NHTM. Bởi đây là điều kiện cần và đủ để các NHTM

hoạt động và là “tấm đệm” giúp các NHTM luôn cần quan tâm không ngừng tới việc

tăng quy mô, tăng hiệu quả sử dụng vốn bằng cách trích lập các quỹ thích hợp như: quỹ

dự trữ, quỹ bảo toàn vốn, quỹ dự phòng rủi ro... từ hoạt động kinh doanh của Ngân

hàng, uy tín của một NHTM phần lớn thể hiện qua quy mô vốn tự có. Bở lẽ, khách

hàng sẽ tín nhiệm NHTM nào có quy mô lớn với cách nghĩ rằng các NHTM có quy mô

lớn sẽ đảm bảo độ an toàn cao hơn.

Xu hướng ngày nay, các NHTM tăng vốn bằng cách tích tụ và đẩy mạnh tập

trung thông qua các hoạt động sáp nhập các NHTM với nhau.

-Tứ hai là , hoạt động huy động tiền gửi : như ta thấy, phân theo mục đích gửi

tiền bao gồm: tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm.

Tiền gửi giao dịch là khoản tiền mà chủ tài khoản có thể sử dụng với mục

đích thanh toán cho khách hàng của họ thông qua phát hành séc hoặc chuyển khoản.

Nó không những lớn mà còn là nguồn vốn rẻ nhấnt vì mục đích của các khoản tiền gửi

này không phải là nhận lãi mà là nhằm sử dụng dịch vụ thanh toán qua hệ thống

NHTM hoặc để giữ được tính lỏng cao nhất với mục đích riêng.

Tiền gửi tiết kiệm (hay còn gọi là tiền gửi phi thanh toán), là khoản tiền gửi mà

chủ tài khoản này không dùng để thanh toán mà bù lại họ được hưởng một mức lãi suất

thoả đáng. Nói chung, nguồn vốn này có chi phí cao hơn khoản tiền gửi giao dịch

nhưng là nguồn vốn quan trọng, ổn định và đảm bảo cho NHTM chủ động trong việc

sử dụng vốn.

Trong hoạt động huy động tiền gửi, ngân hàng căn cứ vào tính chất và đặc điểm

của từng loại tiền gửi cũng như nhu cầu, tâm lý tiêu dụng của người dân, của các tổ

chức kinh tế.v.v... để đưa ra những hình thức huy động khác nhau nhằm đạt hiệu quả

cao nhất. Nghiệp vụ huy động được xác định bởi các thể chế, quy định về thời gian về

lãi suất, hình thức chi trả và hình thức tài khoản. Thông thường, các NHTM luôn luôn

tìm cách cải tiến các hình thức huy động, đặc biệt là các hình thức gắn liền với lợi ích

của người gửi tiền để tạo niềm tin đối với khách hàng.

-Thứ ba là, hoạt động đi vay: Các NHTM có thể chủ động đi vay để có vốn đáp

ứng nhu cầu kinh doanh. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động đắt nhất trong các

nguồn vốn vay huy động của NHTM nhưng lại không thể thiếu trong quá trình kinh

doanh. Hoạt động này giúp cho NHTM chủ động trong quá trình kinh doanh và trong

việc đối phó với khó khăn phát sinh. NHTM thường đi vay Ngân hàng Nhà nước hoặc

từ các tổ chức tín dụng khác.Thông thường quy mô và mục đích sử dụng đã được xác

định trước. Ngoài ra, các NHTM có thể phát hành trái phiếu, vay của các tổ chức tín

dụng nước ngoài, vay trên thị trường Liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán,

nhu cầu tín dụng của khách hàng.v.v... ngày nay, vốn vay mượn đang trở thành bộ

phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM.

Ngoài ra, các NHTM có thể nhận được vốn uỷ thác từ Chính phủ, từ các tổ chức

đầu tư quốc tế, các tổ chức nhân đạo.v.v... để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế

xã hội.

2.2 Hoạt động sử dụng vốn.

Nếu như, hoạt động huy động vốn quyết định sự ra đời và điều kiện tiên quyết

cho việc thực hiện các hoạt động khác của NHTM thì hoạt động sử dụng vốn quyết

định tới sự tồn tại và phát triển của NHTM. Hoạt động này mang phần lớn lợi nhuận

cho các NHTM. Khi thực hiện hoạt động này, các ngân hàng phải đảm bảo có một cơ

cấu tài sản hợp lý nhằm đạt được mức lợi nhuận cao nhất, đồng thời vẫn đảm bảo khả

năng thanh toán cho khách hàng của mình. Để thực hiện được mục tiêu này, các

NHTM phải có chính sách đầu tư, tín dụng thích hợp, kết hợp quản lý tài sản quản lý

nguồn vốn, tuân thủ theo quy định của pháp luật và sự hướng dẫn của ngân hàng Nhà

nước. Hoạt động này bao gồm:

-Thứ nhất, hoạt động ngân quỹ: là hoạt động để đảm bảo khả năng thanh toán

thường xuyên cho khách hàng của NHTM. Trên bảng cân đối tài sản, kết quả của hoạt

động này được thể hiện ở khoản mục dự trữ. Có thể thấy, hầu hết các tài sản dự trữ đều

không sinh lời hoặc có khả năng sinh lời thấp nhưng nó lại có tính lỏng rất cao, điều đó

rất cần thiết cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, là mối quan hệ với chủ thể quản lý:

Ngân hàng Nhà nước do thực hiện hoạt động ngân quỹ phải đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt

buộc (được ngân hàng Nhà nước sử dụng như là công cụ để quản lý và điều hành chính

sách tiền tệ, quản lý hoạt động của Ngân hàng). Trong quản lý các nguồn ngân quỹ, các

NHTM phải xác định được một cơ cấu, tỷ lệ dự trữ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh

toán, tránh ứ đọng và lãng phí vốn. Hoạt động này nó bao gồm: nghiệp vụ quỹ tiền mặt,

tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở Ngân hàng trung ương, tiền trong quá trình thu nhận,

và cũng có thể bao gồm cả nghiệp vụ về bán chứng khoán ngắn hạn.

-Hai là, hoạt động cho vay: Cùng với hoạt động đầu tư, hoạt động cho vay đem

lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Nhưng đây là hoạt động quan

trọng nhất, thể hiện là một trong các chức năng cơ bản của NHTM. Đó là, cho vay đối

với nền kinh tế, qua đó thu được lợi nhuận cho mình. Tuy nhiên, đi kèm với thu nhập

cao là tính lỏng kém và rủi ro lớn. Vì vậy, trong quản lý hoạt động cho vay cần xây

dựng một chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của ngân hàng, tuân thủ

các nguyên tắc quản lý cho vay, quy trình nghiệp vụ tín dụng và triệt để tuân theo các

quy định của pháp luật và của Ngân hàng Nhà nước về chất lượng tín dụng cũng như

các quy định kiểm soát khác.

-Ba là, hoạt động đầu tư: Đây là nguồn thu lớn quan trọng thứ hai, sau hoạt

động cho vay. NHTM đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao (được

coi như là một khoản dự trữ thứ cấp của NHTM) hoặc đầu tư vào chứng khoán có tính

lưu hoạt thấp nhưng có kỳ hạn dài hơn để bù lại lợi ích đem lại cao hơn khoản mục trên

bảng cân đối tài sản thể hiện kết quả hoạt động này. Trong hoạt động đầu tư, ngân hàng

chủ động lựa chọn từ một loạt chứng khoán hiện có. Các NHTM thực hiện hoạt động

này nhằm mục tiêu đa dạng lợi tức, lợi ích về thuế và trợ giúp về tính thanh khoản dự

trữ thứ cấp. Các NHTM không thể cho vay hết các khoản vốn đã huy động về. Bởi lẽ,

các NHTM phải đa dạng hoá đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Các rủi ro có thể là: rủi ro tín

dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất.v.v... Để đảm bảo thành công các ngân hàng phải

có chính sách đầu tư đúng đắn để thu được mức lợi nhuận hợp lý, có được tính lỏng

cao và hạn chế tối đa rủi ro.

2.3 Các hoạt động trung gian

Với tư cách là nhà trung gian môi giới, NHTM thực hiện dịch vụ cho khách

hàng, trên cơ sở đó, NHTM thu được một khoản phí nhưng quan trọng hơn đó là việc

tạo điều kiện để thu hút khách hàng, nhằm tăng khả năng cạnh tranh và thu hút được

nhiều lợi nhuận hơn. Ngày nay, chính nghiệp vụ trung gian là cơ sở để đánh giá và

phân loại các NHTM Chất lượng của các dịch vụ quyết định đến hình ảnh và uy tín

của ngân hàng thương mại, là cơ sở để thắt chặt mối quan hệ giữa ngân hàng và khách

hàng. Đặc trưng là các hoạt động: thu-chi hộ, chuyển tiền, thanh toán, trung gian mua

bán trên thị trường chứng khoán, uỷ thác, đấu thầu, tư vấn và các hoạt động khác như

bảo hiểm, bảo quản tài sản quý, giấy tờ có giá.v.v...

Các NHTM ngày nay đã không ngừng tìm cách bành trướng phạm vi hoạt động

của mình. Họ ra sức ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, trang bị những thiết bị

tiên tiến nhất của công nghệ tin học vào các hoạt động nghiệp vụ. Sự lớn mạnh của

NHTM cùng với quá trình quốc tế hoá đang ngày càng trở nên mạnh mẽ. Thêm vào đó

khuynh hướng phát triển của các NHTM các ngân hàng đa năng cùng với dịch vụ tài

chính và phi tài chính ngày càng đa dạng cộng với sự xâm nhập của các tổ chức phi tài

chính, đã làm cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng gay gắt.

Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đã không bó hẹp trong phạm vi nội bộ quốc

gia mà mở rộng trên toàn thế giới, giữa các ngân hàng với nhau, giữa các ngân hàng với

tổ chức phi tài chính và giữa các tổ chức này với nhau. Trong điều kiện như vậy, các

NHTM phải chủ động quan tâm tới việc tìm ra nhu cầu và mong muốn đó. Việc sử dụng

marketing đã và đang là một điều kiện tất yếu trong cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế

hiện đại, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ ngân hàng

hiện đại, vận dụng marketing, chuyên môn hoá kết hợp với kinh doanh đa năng được

xem là xu hướng phát triển kinh doanh chính và cũng là để thắng trong môi trường cạnh

tranh gay gắt của NHTM.

3.Vai trò của Ngân hàng đối với nền kinh tế

Ngân hàng không chỉ đóng vai trò trong nền kinh tế-nhận tiền gửi và cho vay -

trên thực tế ngân hàng đã thực hiện nhiều vai trò để có thể duy trì khả năng cạnh tranh

và đáp ứng nhu cầu xã hội, các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau:

- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu tự hộ gia đình, thành

các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào

nhà cửa thiết bị và các tài sản khác.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!