Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Chương 7: Protein và sự trao đổi Protein trong cơ thể thực vật pptx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chương 7
Protein và sự trao đổi Protein trong cơ
thể thực vật
7.1 Đại cương về protein
Protein được tạo nên từ các gốc aminoacid. Các gốc này nối với
nhau bằng liên kết peptide. Liên kết peptide là liên kết giữa nhóm
carboxyl của 1 aminoacid và nhóm amin của một aminoacid tiếp theo, và
thực ra ở đây 1 H của nhóm NH2 được thay thế bởi acyl của aminoacid.
Trong 1 dipeptide có hai, trong 1 tripeptide có ba và trong 1 oligopeptide
có từ 3 cho đến 10 gốc aminoacid liên kết với nhau bằng liên kết peptide.
Polypeptide chứa nhiều gốc aminoacid.
Những hợp chất gồm nhiều gốc aminoacid nối với nhau bằng liên
kết peptide được gọi là polypeptide. Mỗi aminoacid chứa 3 nhóm nguyên
tử (NH, CH và CO) cấu tạo nên theo sơ đồ nghiêm ngặt sau:
Ba nhóm nguyên tử này là luôn lặp lại trong chuỗi polypeptide, phần
còn lại của các gốc aminoacid (R) là chuỗi bên.
166
Trong các protein tự nhiên có mặt 20 loại aminoacid khác nhau. Nếu
một chuỗi ngắn có 4 gốc aminacid (tetrapeptide) thì từ đó đã có 204
= 160
000 khả năng, nghĩa là có 160 000 tetrapeptide khác nhau. Nếu độ dài 1
chuỗi gồm 300 gốc aminoacid, một độ dài mà thường gặp đối với nhiều
polypeptide, thì người ta có một số lượng không tưởng tượng được là
10300 khả năng. Nhưng trong tự nhiên chỉ tồn tại một số lượng nhỏ các khả
năng trên.
Như trên đã nêu, tất cả polypeptide có cùng một trình tự CO-CHNH. Đặc tính của từng polypeptide và của protein được xác định do đặc
tính hoá học của các gốc aminoacid, nó có thể tích điện âm, dương, ưa
nước hay kỵ nước. Trong tự nhiên, tuỳ thuộc vào trình tự và thành phần,
đã tạo nên rất nhiều ái lực hoá học khác nhau, chúng có ý nghĩa lớn trong
các phản ứng hoá học và đối với sự nhận biết trình tự aminoacid. Trong đó
có những vùng gốc aminoacid chủ yếu là acid hoặc base, những vùng khác
là những gốc aminoacid ưa nước hay kỵ nước. Những protein của màng
thường có những gốc kỵ nước, những gốc hướng ra ngoài hoặc nhô vào tế
bào chất là ưa nước. Sơ đồ ở hình 7.1 là một ví dụ.
167
7.2 Chức năng của protein
Chức năng của protein được chia ra các nhóm như sau:
1. Chức năng enzyme
2. Chức năng cấu trúc
3. Chức năng dự trữ
4. Chức năng vận chuyển
5. Hormone
6. Chức năng bảo vệ
7. Chức năng co rút
8. Chất độc
Về chức năng enzyme của protein đã được đề cập nhiều lần, đặc biệt
trong “cấu tạo và cơ chế tác động của enzyme”. Protein là chất xây dựng
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ thể động vật. Chất khung
được tạo nên từ protein. Thuộc loại này gồm có da, tóc, sừng, lông và
collagen là thành phần cơ bản của gân và có khoảng 18% tham gia vào cấu
tạo của xương.
Một chức năng phổ biến khác của protein là cấu tạo nên màng sinh
học.
Màng sinh học có chức năng là giới hạn những vùng trao đổi chất và
tham gia vào việc vận chuyển các chất. Màng sinh học cũng có khả năng
chuyển đi những tín hiệu. Protein màng cũng có thể là các enzyme. Chức
năng này được thể hiện ở màng trong của ty thể và lạp thể. Màng sinh học
bao gồm lớp kép lipid với những protein phân bố ở trong đó. Những thành
phần lipid quan trọng nhất là phosphoglyceric, glycoglyceric, sterol và
sphingolipid. Lớp kép lipid của màng sinh học là những phân tử lipid có
những đuôi kỵ nước quay lại với nhau, trong khi đó những gốc đường và
phosphate hướng ra phía ngoài (hình 7.2).
Ở đây thành phần glycerine là trục vuông góc với mặt phẳng của
màng. Lớp kép lipid không đối xứng, nghĩa là ở hai phía của màng có
những phân tử lipid khác nhau. Những phân tử protein nằm trong lớp kép
lipid làm bền vững màng và nhô ra ở hai phía màng (hình 7.2). Thành
phần protein nằm ở trong lớp kép lipid, có đặc tính chủ yếu là kỵ nước,
thành phần protein mà nhô ra phía ngoài, có đặc tính chủ yếu là ưa nước.
Sợi protein nhô ra ở phía tế bào chất thường kết hợp với một protein ngoại
168
vi, những phân tử protein hướng về phía màng tế bào thì thường kết hợp
với một chuỗi carbohydrate (hình 7.2).
Ở trong lớp kép lipid thì phân tử protein có những liên kết kỵ nước
và liên kết ion. Những liên kết ion như liên kết giữa nhóm NH3
+
của
protein và của gốc phosphate của phospholipid. Những liên kết này nhạy
cảm với độ pH. Vì vậy màng sinh học bị ảnh hưởng, thậm chí bị phá huỷ
bởi giá trị pH thái quá. Mức độ quánh đặc nhiều hay ít của màng sinh học
bị ảnh hưởng lớn bởi nhiệt độ. Ở nhiệt độ thấp màng sinh học có cấu trúc
giống như tinh thể. Khi nhiệt độ tăng lên đến nhiệt độ chuyển pha cấu trúc
rắn sẽ chuyển sang cấu trúc tinh thể lỏng. Nhiệt độ chuyển pha tăng theo
độ dài và độ no của acid béo. Ca2+
làm ổn định màng, nó liên kết với
những nhóm ở phần đầu chủ yếu tích điện âm, ví dụ gốc phosphate của
phospholipid. Ca2+ có khả năng tạo liên kết với hai nhóm tích điện âm. Vì
vậy Ca2+
sẽ làm giảm tính thấm của màng, trong khi những ion hoá trị
một, đặc biệt là H+
làm tăng tính thấm. Tính thấm cũng bị ảnh hưởng bởi
đặc tính của lipid. Thành phần steroid và những gốc acid béo no và có
mạch carbon dài làm cho màng sít lại, những gốc acid béo chưa no làm
cho màng lỏng lẻo ra, do vậy làm tăng tính thấm của màng.
Khi người ta nói đến tính thấm của màng chủ yếu là nói đến tính
thấm của những chất ưa nước. Những chất này thấm qua màng rất ít, trong
khi đó những phân tử kỵ nước có thể thấm qua hoặc khuếch tán qua màng.
Hầu hết những chất trao đổi có đặc tính ưa nước, đối với chúng màng sinh
169
học là cái chắn đáng kể và ở đây chúng cần một cơ chế đặc biệt hơn để
vận chuyển qua màng.
Protein dự trữ được tích luỹ trong mô dự trữ và khi cần sử dụng thì
được huy động. Protein dự trữ điển hình ở động vật là protein trứng và
sữa. Đó là protein cần thiết đối với động vật còn non, tương tự protein của
hạt và quả, là nguồn dinh dưỡng đối với cây con.
Chất lượng protein được đánh giá theo thành phần các aminoacid
không thay thế. Đó là những aminoacid mà cơ thể người và động vật
không có khả năng tổng hợp được. Hàm lượng các aminoacid không thay
thế của các loại protein khác nhau được trình bày ở bảng 7.1 và 7.2
Bảng 7.1 Những aminoacid không thay thế đối với người
--------------------------------------------------------------------
Valine Lysine Phenylalanine
Leucine Methionine Tryptophan
Isoleucine Threonine
Bảng 7.2 Hàm lượng aminoacid không thay thế của các loại protein
khác nhau (%)
------------------------------------------------------------------------------------------
Protein trứng 51 Protein đậu tương 40
Protein sữa 50 Protein gạo 39
Protein mô cơ 47 Nấm 35
Collagen 17 Protein lúa mỳ 33
Protein lá cây 40 Protein hạt lạc 32
------------------------------------------------------------------------------------------
Những protein động vật, và cả protein của lá cây phần lớn là giàu
aminoacid không thay thế. Protein của hạt và ngũ cốc chứa ít aminoacid
170
không thay thế. Ở protein ngũ cốc là lysine, ở protein hạt và đậu các loại
là methionine có hàm lượng thấp và nó giới hạn giá trị sinh học của những
loại protein này.
Ở sự giải độc các kim loại nặng nhờ những polypeptide đơn giản
theo kiểu phytochelatin có ý nghĩa quan trọng. Ví dụ polypeptide đơn giản
có nguồn gốc từ glutation và có công thức chung như sau:
(γ-glutamyl-cysteinyl)n-glycine
Do có nhiều nhóm SH chúng có khả năng kết hợp chặt với các kim
loại nặng, làm cho những kim loại nặng này không thể gây rối loạn trao
đổi chất. Sự tổng hợp phytochelatin được kích thích bởi những kim loại
nặng như Cd, Cu, Ag, Bi và Au.
Protein bảo vệ có một vai trò lớn trong sinh học miễn dịch. Động vật
có xương sống có một cơ chế phức tạp, phát triển cao, với cơ chế này
chúng ngăn ngừa những tác nhân vi sinh vật gây bệnh (virus, vi khuẩn,
nấm, chất độc vi khuẩn). Chức năng này có phần liên quan đến đặc tính
của chuỗi polypeptide. Hệ thống tự vệ toàn bộ, sinh học miễn dịch là một
lĩnh vực khoa học phát triển độc lập. Một protein lạ (virus, vi khuẩn, nấm)
xâm nhập vào máu hoặc vào mô thì cơ chế tự vệ được huy động rất nhanh.
Protein lạ được gọi là antigen. Nó có một vùng gồm một trật tự xác định
các nguyên tử, với vùng này nó kết hợp với tế bào lympho và kích thích tế
bào này sản sinh ra kháng thể. Những tế bào lympho tồn tại trong hệ thống
miễn dịch với số lượng 109
và có trên bề mặt của nó những vùng nhận, nơi
mà antigen được kết hợp vào. Những vùng nhận này rất khác nhau và
“phù hợp” mỗi vùng cho 1 antigen xác định. Những tác nhân khác nhau có
những tế bào lympho xác định khác nhau với những vùng nhận phù hợp.
Khi một antigen kết hợp với tế bào lympho thì nó bắt đầu sản sinh kháng
thể đặc hiệu đối với tác nhân gây bệnh. Những tế bào lympho khác không
được kích thích cho việc sản sinh ra kháng thể. Có sẵn một số lượng lớn
các tế bào lympho khác nhau, chúng có thể tổng hợp được rất nhanh
những kháng thể khác nhau khi kháng nguyên xuất hiện. Những loại
kháng thể khác nhau này là xác định, tồn tại với số lượng không đếm
được, có thể một vài triệu, ở đây mỗi một loại có một vị trí kết hợp duy
nhất đặc trưng. Khả năng lớn không thể tưởng tượng được của hệ thống
miễn dịch đã làm cho protein lạ, protein của tác nhân gây bệnh trở thành
vô hại. Những kháng thể này được gọi là globulin miễn dịch. Chúng
chiếm khoảng 20% protein tổng số trong máu.
Globulin miễn dịch Ig được chia làm 5 nhóm khác nhau. Tuy nhiên
thành viên cơ bản Ig các nhóm đều có dạng chữ Y. Cấu trúc này gồm 2 sợi
171
polypeptide ngắn, xác định, mỗi sợi có khoảng 220 gốc aminoacid (hình
7.4).
Hình 7.4: Sơ đồ biểu diễn kháng thể và kháng nguyên.
a) Kháng thể gồm 4 chuỗi polypeptide
b) Kháng thể kết hợp với kháng nguyên
c) Kết hợp giữa kháng nguyên và kháng thể
Cơ chế mà kháng thể nhận biết vị trí kháng nguyên của protein lạ là
đặc biệt thú vị. Sự kết hợp giữa kháng thể và kháng nguyên là thuận
nghịch và có thể so sánh với sự kết hợp giữa enzyme và cơ chất.
Liên kết này không phải đồng hoá trị mà là những liên kết hydro và
liên kết ion. Điều đó làm rõ rằng trình tự aminoacid của vị trí kết hợp xác
định tính đặc hiệu của liên kết. Từ đó rút ra rằng chuỗi polypeptide ngắn
hay dài của kháng thể là một đoạn siêu biến có từ 20-30 gốc aminoacid,
172