Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu CHƯƠNG 1 VAI TRÒ, VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM VÀ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở VIỆT
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ, VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM VÀ KHẢ NĂNG PHÁT
TRIỂN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới có nghề nuôi trồng thủy
sản phát triển và cũng là nước có lịch sử nuôi trồng thủy sản lâu đời. Trải qua hàng
ngàn năm lịch sử cho đến nay nuôi trồng thủy sản đã trở thành một bộ phận quan
trọng đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân. Nuôi trồng thủy sản đã trở
thành một hoạt động sản xuất chủ yếu đối với rất nhiều ngư dân ở Việt Nam. nuôi
trồng thủy sản không những là nhân tố đóng vai trò chính trong ngành thủy sản mà
còn đóng một số vai trò nhất định trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng tích
lũy vốn, xuất khẩu thu về ngoại tệ cho nhà nước, cung cấp nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp và ngành y, dược, tạo việc làm cho lao động.
Với hơn 3.260 km bờ biển, 12 đầm phá và eo vịnh, 112 cửa sông, lạch, hàng
ngàn đảo lớn nhỏ ven biển, lại thêm hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt cùng
với các hồ thuỷ lợi, thuỷ điện, nước ta có một tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy
sản với trên dưới 2 triệu ha diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.
Trong 15 năm gần đây 1990-2005 diện tích nuôi trồng thủy sản đã phát triển cả ba
vùng nước: lợ, mặn, ngọt, đang mở rộng ở nước lợ và vươn ra biển. Với tốc độ
nhanh bình quân tăng khoảng 4÷5% năm. Năm 1996 diện tích nuôi trồng thủy sản
chỉ đạt 585.000 ha trong đó có khoảng 270.000 ha diện tích nuôi nước lợ, mặn
nhưng đến năm 2005 đã sử dụng 959.900 ha để nuôi thủy sản.(đối tượng nuôi chủ
yếu là tôm với diện tích là 580.465 ha) Trong nuôi trồng thủy sản đối tượng nuôi
phong phú, hình thức nuôi đa dạng. Nhiều giống loài thủy sản nuôi đã trở thành
sản phẩm hàng hóa, xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Nhiều hình thức nuôi như bán
thâm canh, thâm canh xuất hiện đã trở thành mô hình sản xuất tiên tiến, đã và đang
được mở rộng trong cả nước.
Tỉ lệ giữa đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy sản như sau: Năm 1991 khai
thác thủy sản đạt 714.253 tấn chiếm 67,2%; nuôi trồng thủy sản đạt 347.910 tấn
chiếm 32,8%. Năm 1995 khai thác thủy sản đạt 928.860 tấn chiếm 69,1%; nuôi
trồng thủy sản đạt 415.280 tấn chiếm 30,9 %. Năm 2000 khai thác thủy sản đạt
1.280.570 tấn chiếm 63,9 %; nuôi trồng thủy sản đạt 723.123 tấn chiếm 36,1%. Do
cơ cấu ngành thủy sản chủ yếu phụ thuộc vào khai thác thủy sản nên dẫn đến việc
khai thác quá mức nguồn lợi tự nhiên và phá hoại nghiêm trọng đến nguồn sinh
vật ven biển cùng như trong nôi địa. Hậu quả của những việc làm trên đã dẫn đến
sản lượng khai thác giảm sút và các loại thủy sản kinh tế ngày càng cạn kiệt. Mặt
khác nguồn tài nguyên thích hợp cho việc phát triển nghề nuôi trồng thủy sản như:
các vùng nước sông ngòi, hồ ao trong đất liền, các vùng ven biển, bãi bồi, cửa
sông, rừng ngập mặn, vũng vịnh và các vùng ven đảo chưa được khai thác một
cách có hiệu quả. Suốt trong một thời gian dài, giữa cung và cầu các mặt hàng
1
thủy sản ở Việt Nam luôn mâu thuẫn sâu sắc. Người dân ở vùng thành thị lẫn nông
thôn vẫn trong tình trạng không đủ sản phẩm thủy sản để tiêu dùng.
Từ năm 1987 trở lại đây, do tình hình xã hội Việt Nam đang tiến hành cải
cách mở cửa mà ngành thủy sản Việt Nam đã áp dụng hàng loạt các phương án và
chính sách mới nhằm khích lệ phát triển nghề nuôi trồng thủy sản dựa trên cơ sở
đã tổng kết và học tập những kinh nghiệm trong công tác thủy sản. Ngành thủy sản
đã lấy việc phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản làm chiến lược trọng điểm để
phát triển ngành thủy sản và làm giàu kinh tế nông thôn. Nghề nuôi trồng thủy sản
qua đó đã có được những sự phát triển vượt bậc và bước sang một thời kỳ lịch sử
phát triển mới. Cụ thể là năm 2005, tổng sản lượng sản phẩm thủy sản ở Việt Nam
đạt 3.432.800 tấn, trong đó sản lượng sản phẩm khai thác thủy sản đạt 1.995.411
tấn (so với năm 2004 tăng 2,86%) và sản lượng sản phẩm nuôi trồng đạt 1.437.355
tấn (so với năm 2004 tăng 19,53%). Tỉ lệ giữa khai thác thủy sản và nuôi trồng
thủy sản là 58,1 % và 41,9 %. Hơn nữa nghề nuôi trồng thủy sản phát triển với
mức độ tăng bình quân hàng năm khoảng 90.000 -100.000 tấn. Tỉ xuất tăng trưởng
hàng năm của ngành khai thác thủy sản rõ ràng đã thấp hơn so với tỉ xuất tăng
trưởng hàng năm của ngành nuôi trồng thủy sản. Việc này đánh dấu ngành thủy
Việt Nam đã bước vào một thời kỳ phát triển tốt.
Năm Tổng sản
lượng
Khai thác Nuôi trồng
Sản lượng Tỷ lệ % Sản lượng Tỷ lệ %
1991 1.062.163 714.253 67,2 347.910 32,8
1995 1.344.140 928.860 69,1 415.280 30,9
2000 2.003.693 1.280.570 63,9 723.123 36,1
2005 3.432.766 1.995.411 58,1 1.437.355 41,9
2006
2007
Thực tiễn đã chứng minh, nghề cá muốn có sự phát triển tốt phải dựa trên
tiền đề của nghề nuôi. Cho nên, cùng với sự gia tăng nhu cầu về lượng các sản
phẩm thủy sản, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế xã hội không
ngừng phát triển, nghề nuôi trồng thủy sản phải giữ vai trò chủ đạo đối với ngành
thủy sản.
Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam thì đến
năm 2010 tổng sản lượng các sản phẩm thủy sản nuôi trồng thủy sản sẽ lên đến 2
triệu tấn, tăng tỉ trọng sản lượng ngành nuôi chiếm giữ trong tổng sản lượng các
mặt hàng thủy sản lên đến 50-60%. Ngành nuôi trồng thủy sản sẽ phát huy được
vai trò to lớn của mình trong ngành thủy sản nói riêng và nông nghiệp nói chung.
2