Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nghệ an
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Luận văn
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
được hình thành từ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh kinh tế xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế
bằng các biện pháp, thủ đoạn khác nhau nhằm đạt mục tiêu tối đa lợi ích trong quá
trình sản xuất - kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cạnh tranh vừa là môi
trường vừa là động lực của sự phát triển.
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần, phát huy mọi nguồn lực nhưng kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo thành công trong hội nhập kinh
tế quốc tế. Để kinh tế nhà nước làm tròn vai trò chủ đạo, việc nâng cao sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá là
rất quan trọng. Việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này sẽ
góp phần quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước - bộ phận nòng cốt
của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động và quá trình đô thị hoá. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các
doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế, quy mô nhỏ, công nghệ
lạc hậu, sản xuất - kinh doanh kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh thấp, tư
tưởng bảo hộ nặng nề, làm ăn thua lỗ kéo dài.
Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà
nước. Tỉnh Nghệ An đã đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An đã đảm
bảo đúng lộ trình chính phủ phê duyệt. Vấn đề cấp bách hiện nay là đưa ra
3
phương hướng, giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cổ
phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước.
Với ý nghĩa và tính cấp thiết như vậy, tôi chọn đề tại "Sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước ở Nghệ An" làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường của quốc gia,
các địa phương, các doanh nghiệp, các ngành hàng, sản phẩm là chủ điểm được
giới học thuật rất quan tâm nghiên cứu khá kỹ lưỡng, bình luận khá nhiều.
Có thể nêu ra một số đề tài nghiên cứu về cạnh tranh như:
+ GS - TS Chu Văn Cấp (chủ biên): Nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. (Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Hà Nội 2003).
+ TS Phạm Thu Hồng: Chiến lược cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội 2004)
+ Thạc sỹ Đỗ Thị Oanh: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp.
+ Dự án VIE 01/2005: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (Nhà
xuất bản giao thông vận tải 2003).
+ Tạp chí Cộng sản số 22/2004 của GS - TS Lê Hữu Nghĩa - Tổng biên tập
Tạp chí Cộng sản, Phó chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, về Cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên việc nghiên cứu cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình
thành từ cổ phần hoá DNNN dưới góc độ kinh tế chính trị chưa có nhiều. Vì
vậy, đề tài này vẫn cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở các tri thức cấu thành sức cạnh tranh của doanh nghiệp, luận
văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp được
4
hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Nghệ An, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp này
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa lý luận về sức cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, từ đó làm rõ đặc điểm cạnh tranh của
các doanh nghiệp từ DNNN cổ phần hoá.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh, sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp cổ phần hoá từ DNNN ở Nghệ An, từ đó rút ra
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu hạn chế và những vấn đề mới nảy
sinh rào cản cần được giải quyết.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá DNNN ở Nghệ
An trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chú trọng đi sâu nghiên cứu sức cạnh tranh kinh tế dưới góc
độ lý luận, làm rõ phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức
cạnh tranh, của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá DNNN ở
Nghệ An.
+ Thời gian nghiên cứu từ năm 2001 - 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị nên phương pháp nghiên
cứu là trừu tượng hoá khoa học và sử dụng phương pháp thống kê phân tích,
tổng hợp, nghiên cứu tổng kết thực tiễn, kế thừa những thành tựu liên quan
đến đề tài.
5
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua hệ thống lý luận và thực tiễn, đề tài tìm thêm khái niệm, nội
dung và sự cần thiết nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình
thành từ cổ phần hoá DNNN ở Nghệ An. Từ đó đề xuất phương hướng, giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp được hình thành
từ cổ phần hoá DNNN ở Nghệ An trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN
ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC -
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Cạnh tranh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các học thuyết kinh tế thị trường dù thuộc trường phái nào đều thừa
nhận rằng cạnh tranh chỉ tồn tại gay gắt trong nền kinh tế thị trường, nơi mà
một nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao nhất.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp và do cách tiếp
cận khác nhau về cạnh tranh, nên thuật ngữ này có thể hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Theo Adam Smith, cạnh tranh có thể phối hợp một cách nhịp nhàng, có
lợi cho xã hội. Nhờ sự cạnh tranh các quốc gia sẽ giàu lên chủ yếu diễn ra
thông qua thị trường và giá cả. Do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ
chế thị trường.
Adam Smith cho rằng, nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau,
thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một
cách chính xác, cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng lớn nhất.
Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy thực
hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn hơn.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, quan điểm nghiên cứu của C.Mác
trước hết chú ý đến sự cạnh tranh giữa những người sản xuất với người tiêu
dùng. Cạnh tranh kinh tế có thể xét khái quát dưới 3 góc độ: cạnh tranh giá
thành, thông qua năng suất lao động, các nhà tư bản nhằm thu được giá trị
thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng, thông qua nâng cao giá trị sử
7
dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá để thực hiện giá trị hàng hoá
có lợi hơn; Cạnh tranh giữa các ngành, thông qua việc gia tăng tích luỹ
chuyển đầu tư của tư bản, nhằm chia nhau giá trị thặng dư có lợi. Ba góc độ
cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực hiện
giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản trong
lý luận cạnh tranh của Mác.
Theo C.Mác, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản để dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch:
Theo từ điển bách khoa của Việt Nam thì cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa
các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối
bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị
trường có lợi nhất.
Theo cuốn kinh tế học của Samuwelson thì: Cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng, thị trường.
Theo các tác giả của cuốn "Các vấn đề pháp lý và thể chế chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh" thì: Cạnh tranh có thể được
hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc dành một số nhân tố sản
xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt
được mục tiêu kinh doanh cụ thể.
Ngoài ra, còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm
cạnh tranh... qua các định nghĩa nêu trên, có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất: Khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai: Mục đích trực tiếp là một đối tượng cụ thể nào đó mà các bên
đều muốn dành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án) Một loạt điều kiện có
lợi (một thị trường, một khách hàng).
8
Thứ ba: Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể có các ràng
buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị
trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh...
Thứ tư: Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có
thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng
sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp; chính
sách định giá cao; chính sách ổn định giá, định giá theo thị trường; chính sách
giá phân biệt; bán phá giá); cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ
chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh tranh
thông qua hình thức thanh toán...
Với cách tiếp cận trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn khái
niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó
các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm một biện pháp, cả kỹ thuật lẫn thủ đoạn
để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành
lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích
cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích.
Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi
ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, có
kinh tế thị trường thì có cạnh tranh. Thông qua sự cạnh tranh mà các doanh
nghiệp tự hoàn thiện quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Nền sản xuất
hàng hoá trên thế giới ngày càng phát triển, thì cạnh tranh kinh tế cũng ngày
càng phát triển. Những thành tựu mà nhân loại đạt được ngày hôm nay, có sự
đóng góp to lớn của nhân tố cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh các nhà nghiên cứu còn sử dụng khái
niệm: Sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh (trong thực
tế thì cạnh tranh, sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh được sử dụng như là
khái niệm đồng nghĩa). Tuy nhiên, đây là khái niệm phức hợp, bao gồm các
9
yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm năng lực, sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Ở đây có thể tiếp cận các
khái niệm về sức cạnh tranh/năng lực cạnh tranh như sau:
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền
kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư bảo đảm ổn định
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường
cạnh tranh trong nước và nước ngoài. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh
một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ, vì vậy người ta còn phân biệt năng
lực/sức cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực/sức cạnh tranh của sản
phẩm và dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo
bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể trên thị trường.
Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền
kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có sức cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận
lợi, các chính sách kinh tế của vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền
kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng
là yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh
nghiệp rất thành công trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Năng lực
cạnh tranh/sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh
nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào