Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sự tương tác về hành vi hỏi - đáp qua lời thoại trong tắt đèn và lều chõng của ngô tất tố.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
NGUYỄN THỊ TIẾN
Sự tương tác về hành vi hỏi - đáp qua lời thoại
trong Tắt đèn và Lều chõng của Ngô Tất Tố
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong cuộc sống, con người luôn có nhu cầu trao đổi thông tin, bày tỏ cảm xúc
của mình, để thực hiện được những điều đó đòi hỏi con người phải hội thoại với
nhau. Hội thoại là một hình thức giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến trong mọi
hoạt động của con người. Muốn cho cuộc hội thoại thành công thì mỗi nhân vật giao
tiếp phải biết sử dụng các yếu tố ngôn ngữ vào lời thoại của mình một cách tốt nhất,
hiệu quả nhất. Ngôn ngữ hội thoại thể hiện rõ đặc điểm tính cách nhân vật hội thoại,
thể hiện rõ nét đặc trưng văn hóa, trình độ, tâm lí của mỗi nhân vật.
Tuy nhiên trong giao tiếp hàng ngày, người ta nói ra không chỉ đơn thuần để
nói, để thông báo, thể hiện tình cảm mà còn để hỏi, để biểu thị những điều chưa biết,
cái không rõ và cần được giải đáp làm sáng tỏ vấn đề. Ngoài ra, thông qua hành vi hỏi
– đáp còn nhằm chuyển tải một thông tin ngầm, ẩn chứa đằng sau câu chữ cụ thể.
Ngô Tất Tố được xem là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực trước
Cách mạng, đồng thời cũng là một trong những tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng
trong nền văn học Việt Nam hiện đại, được đánh giá là hiện tượng độc đáo của văn
chương hiện thực. Ngô Tất Tố đã vận dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày vào trong tác
phẩm của mình một cách linh hoạt, uyển chuyển, tinh tế, tiêu biểu là trong Tắt đèn và
Lều chõng. Trong hai tiểu thuyết này, nhà văn chủ yếu để cho nhân vật tự hội thoại
với nhau. Cho nên, đi sâu tìm hiểu tác phẩm của nhà văn Ngô Tất Tố chúng ta không
thể không tìm hiểu lời ăn tiếng nói của các nhân vật. Họ đã nói cái gì? Họ nói với
nhau như thế nào? Họ nói với nhau để làm gì? Từ những lí do trên chúng tôi lựa chọn
đề tài: “Sự tương tác về hành vi hỏi - đáp qua lời thoại trong Tắt đèn và Lều chõng
của Ngô Tất Tố” làm khóa luận tốt nghiệp.
Lựa chọn đề tài này sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn sâu sắc về đặc điểm tính
cách nhân vật, hiện thực cuộc sống được tái hiện trong tác phẩm và phong cách sáng
tác của nhà văn. Đồng thời, chúng tôi có dịp được tìm hiểu sâu hơn về con người và
sự nghiệp văn chương của Ngô Tất Tố, góp phần khẳng định tài năng của nhà văn. Để
từ đó tích luỹ kiến thức nhằm phục vụ cho việc học tập, giảng dạy của bản thân sau
này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
* Nghiên cứu vấn đề ở phương diện Văn học:
Văn nghiệp lớn, đa dạng của Ngô Tất Tố đã thu hút được sự quan tâm của giới
nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo công chúng. Mấy thập kỷ qua,
kể từ bài viết đầu tiên của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết Tắt đèn (năm 1939) đến
nay, đã có cả trăm bài viết, công trình đi sâu khám phá các phương diện khác nhau
trong thế giới nghệ thuật đa dạng, độc đáo của nhà văn. So với nhiều cây bút cùng
thời (ngay cả các nhà văn cùng trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng) những ý
kiến đánh giá về Ngô Tất Tố và văn nghiệp của ông khá ổn định, thống nhất, trong xu
hướng khẳng định những thành tựu, phần đóng góp lớn cả vị trí trang trọng của ông –
một nhà văn “thực học – thực tài”, một nhân cách trong sáng cao đẹp trong nền văn
học dân tộc.
Như chúng tôi đã nói ở trên, văn nghiệp của Ngô Tất Tố đã tốn rất nhiều giấy
mực của giới nghiên cứu, phê bình văn học.
Trước hết, chúng ta phải kể đến cuốn Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm
(2001), Nxb Giáo dục. Đây là cuốn sách tập hợp tương đối đầy đủ hệ thống những bài
nghiên cứu, phê bình cũng như hồi ức, kỷ niệm của bạn bè, đồng nghiệp, người thân
về sự nghiệp văn chương và cuộc đời của tác giả. Các bài viết từ nhiều góc độ khác
nhau và cách tiếp cận khác nhau đã đi sâu vào phân tích, đánh giá những nét tiêu biểu
nhất trong thế giới nghệ thuật và vị trí của nhà văn trong nền văn học dân tộc, với
những bài viết tiêu biểu như:
- Nguyễn Đăng Mạnh với bài: Tắt đèn của Ngô Tất Tố.
- Tắt đèn - cuốn tiểu thuyết hiện thực xuất sắc của Hoàng Chương.
- Vũ Ngọc Phan có bài: Lều chõng của Ngô Tất Tố.
Bên cạnh đó, trong cuốn Tác giả trong nhà trường Ngô Tất Tố (2006), Nxb
Văn học đã tập hợp các bài viết tiêu biểu về tác giả Ngô Tất Tố cũng như sự nghiệp
sáng tác của ông. Phan Cự Đệ đã có bài viết Ngô Tất Tố và một sự nghiệp đổi mới
hôm nay. Tác giả cho rằng: “Ngô Tất Tố đã nhiều lần kêu gọi trở về cội nguồn dân
tộc, trở về bản sắc văn hóa Việt Nam” [27, tr.50]. Tác giả còn cho rằng: “Đối với
cuộc sống, Ngô Tất Tố luôn có một cái nhìn hiện thực tỉnh táo, một thái độ dũng cảm,
dám phanh phui mọi mâu thuẫn phức tạp, dám vạch trần mọi mặt nạ giả dối, nhưng
đồng thời cũng luôn bộc lộ một niềm tin yêu nhân hậu và thiết tha vào bản chất tốt
đẹp của con người. Nhất là với người lao động nghèo khổ” [27, tr.51]. Tác giả Vũ
Ngọc Phan trong bài: “Lều chõng” của Ngô Tất Tố cũng đã có nhận xét về nghệ thuật
xây dựng tiểu thuyết: “Xây dựng tiểu thuyết Lều chõng, chủ ý của tác giả là làm cho
người đọc thấy được những nét chính của cái học và lối thi cử phong kiến với tất cả
những sự thối nát của nó” [27, tr.149]. Tác giả còn cho rằng: “Nghệ thuật phản ánh
hiện thực cũng có những chỗ tinh vi, đánh dấu hẳn một giai đoạn lịch sử vào giữa thế
kỷ XIX, người trí thức Việt Nam còn bị bả công danh cám dỗ…” [27, tr.152].
Phan Cự Đệ còn có bài viết Những khuynh hướng tiểu thuyết hiện đại trước
Cách mạng tháng Tám. Khi nói về ngôn ngữ trong sáng tác của Ngô Tất Tố tác giả
khẳng định: “Ngôn ngữ trong tác phẩm của Ngô Tất Tố là ngôn ngữ hàng ngày, của
quần chúng nhân dân đã được nghệ thuật hóa”.
Trong cuốn Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo (2003), Nxb Văn
học. Tác giả Trần Đăng Suyền có bài Nghệ thuật tự sự của Ngô Tất Tố trong tiểu
thuyết Tắt đèn. Trần Đăng Suyền nhận định với nghệ thuật kể chuyện sắc sảo trong
Tắt đèn: “Chứa đựng thời gian rất ngắn và không gian rất hạn hẹp. Một sự dồn nén
cao độ về không gian và thời gian, các biến cố sự kiện dồn nén hết sức căng thẳng”
[25, tr.248].
Như vậy, những công trình nghiên cứu về các sáng tác của Ngô Tất Tố khá
phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, những công trình đó chủ yếu nghiên cứu ở khía
cạnh nội dung của tác phẩm chứ chưa đi sâu vào khám phá thế giới nghệ thuật đặc
sắc, đặc biệt là ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật.
Gần đây còn có một số khóa luận tốt nghiệp bàn về những khía cạnh khác
nhau của tiểu thuyết Ngô Tất Tố như: Câu đặc biệt trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô
Tất Tố của Nguyễn Thị Kim Cúc. Nguyễn Thị Hằng với Bi kịch kẻ sĩ phong kiến
trong tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố. Hay khóa luận của Lê Thị Liễu về vấn
đề Lều chõng – Tiểu thuyết phụng sự xuất sắc của Ngô Tất Tố.
* Nghiên cứu vấn đề ở phương diện Ngữ dụng học:
Trên thế giới đã từ lâu, ngữ dụng học phát triển một cách mạnh mẽ và ngày
càng có vị trí đặc biệt trong ngôn ngữ học. Số lượng các chuyên khảo cũng như các
công trình đề cập tới những phương diện khác nhau của ngành này ngày một tăng. Có
thể nói rằng ngày nay, không một công trình nghiên cứu ngôn ngữ học nào lại không
ít nhiều đề cập đến ngữ dụng học.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, ngữ dụng học cũng được các nhà ngôn
ngữ đặc biệt quan tâm. Các chuyên gia hàng đầu của Việt Nam về ngữ dụng học như
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo, Lê Đông, Đỗ Thị Kim Liên,
Nguyễn Thiện Giáp,… đã có những công trình nghiên cứu xuất sắc về phân ngành
ngữ dụng học cũng như các phương diện khác nhau của ngành này.
Lý thuyết hội thoại là một trong những vấn đề trung tâm của ngữ dụng học. Ở
bình diện này, trước hết phải kể đến tác giả Đỗ Hữu Châu. Ông có các công trình tiêu
biểu về ngữ dụng học như: Cơ sở ngữ dụng học (2003), Đại cương ngôn ngữ học
(2006), Giáo trình ngữ dụng học (2007). Các vấn đề về lý thuyết hội thoại, vận động
hội thoại, quy tắc hội thoại, thương lượng hội thoại, cấu trúc hội thoại được tác giả
Đỗ Hữu Châu trình bày một cách có hệ thống, đầy đủ, giúp cho người đọc có những
cách tiếp cận mới đối với một lĩnh vực vừa mới vừa khó.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như Ngữ pháp
chức năng tiếng Việt (2000) và Tiếng Việt sơ khảo ngữ pháp chức năng (2006) của
GS. Cao Xuân Hạo, Ngữ dụng học của GS.TS Nguyễn Đức Dân. Dụng học Việt ngữ
(2007), Giáo trình Ngữ dụng học (2008), 777 khái niệm ngôn ngữ học (2010) của
Nguyễn Thiện Giáp. Tác giả Đỗ Thị Kim Liên cũng đã cho ra đời 2 công trình nghiên
cứu có giá trị Ngữ nghĩa lời hội thoại (1999) và Giáo trình ngữ dụng học (2005).
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên, khi bàn về hội thoại và các
hành vi ngôn ngữ còn có nhiều bài viết liên quan của các tác giả Nguyễn Thị Thìn,
Mai Ngọc Chừ, Diệp Quang Ban,… nhằm cung cấp các khái niệm về hội thoại, cặp
thoại, ngữ cảnh giao tiếp, hành vi ngôn ngữ.
Lê Anh Xuân với bài viết Tại lời dưới dạng câu nghi vấn để thể hiện hành vi
khẳng định một cách gián tiếp. Trong bài viết này tác giả đã trình bày một cách cụ thể
và ngắn gọn những cách thể hiện gián tiếp dưới dạng câu nghi vấn. Cũng trong nội
dung này Nguyễn Thị Thìn có bài viết Tác dụng báo hiệu hành vi ngôn ngữ gián tiếp
của một số kiểu cấu trúc nghi vấn. Hay bài viết Chức năng thực hiện các hành vi
ngôn ngữ tại lời gián tiếp của câu hỏi tu từ của Lê Thị Thu Hoài. Lê Anh Xuân còn
có bài viết Các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh, trong bài viết này tác
giả đã trình bày một cách cụ thể các dạng trả lời gián tiếp bằng dạng câu tường thuật,
câu nghi vấn, câu cầu khiến và dạng câu đặc biệt. Như vậy, tất cả các bài viết này chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp và họ chỉ lấy các ví dụ để minh
họa cho công trình nghiên cứu của mình chứ chưa đi sâu và nghiên cứu một tác phẩm
văn học cụ thể nào.
Việc phân tích các hành vi ngôn ngữ tại lời trong các tác phẩm văn học còn khá
ít. Nguyễn Thị Én có bài Hành vi cầu khiến qua lời thoại nhân vật nữ trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết của mình, tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu hành vi cầu khiến của nhân vật nữ ở cả hành vi gián tiếp và trực tiếp.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, khóa luận tốt nghiệp đã đi vào giải quyết các
vấn đề riêng lẻ trong hành vi ngôn ngữ và lý thuyết hội thoại như: Hoàng Thị Nguyệt
với Hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại qua truyện ngắn Nam Cao . Trần Thị
Minh Toan với Hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại qua truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan. Hay Đặc trưng ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao của Vũ
Thị Hạnh. Phan Khắc Luận với Đặc trưng ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Đặc trưng ngôn ngữ hội thoại trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội
của Phùng Quán của Dương Thị Thanh Huyền, Võ Thị Hạnh với Tìm hiểu hành vi
khen ngợi trong văn học hiện thực phê phán, Hoàng Thu Huyền với Tìm hiểu cách
thể hiện hành vi chửi mắng trong văn học hiện thực phê phán, Tìm hiểu cách thể hiện
hành vi chê trách trong văn học hiện thực phê phán của Phạm Khắc Kiên,…
Như vậy, hành vi tại lời là một vấn đề lí thú và được nhiều người quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên các bài viết trên chỉ đề cập đến một khía cạnh của hành vi
ngôn ngữ trong văn học hiện thực phê phán nói chung hay là những vấn đề về hành vi
tại lời gián tiếp trong tác phẩm văn học. Còn với đề tài: “Sự tương tác về hành vi hỏi
– đáp qua lời thoại trong Tắt đèn và Lều chõng của Ngô Tất Tố” khách quan mà nói
thì chưa có một công trình nghiên cứu nào khai thác một cách trọn vẹn, cụ thể và sâu
sắc. Dựa trên cơ sở tiếp thu thành công của những người đi trước, chúng tôi mong
muốn được góp một phần bé nhỏ của mình để làm phong phú, hoàn thiện hơn việc
nghiên cứu và tìm hiểu về sự tương tác hành vi hỏi – đáp trong tác phẩm văn học của
nhà văn Ngô Tất Tố.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Sự tương tác về hành vi hỏi - đáp
qua lời thoại trong Tắt đèn và Lều chõng của Ngô Tất Tố.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài này: chúng tôi đi vào khảo sát hai tiểu thuyết
của Ngô Tất Tố là Tắt đèn và Lều chõng, Nxb Văn học (1977)
Tư liệu mà chúng tôi khảo sát là các lời thoại của các nhân vật giao tiếp theo
từng cặp thoại (hỏi - đáp) với sự tương tác của chúng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đi vào nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
* Phương pháp khảo sát.
* Phương pháp thống kê, phân loại.
* Phương pháp so sánh, đối chiếu.
* Phương pháp phân tích – tổng hợp.
5. Bố cục của khóa luận
Đề tài mà chúng tôi nghiên cứu ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham
khảo. Phần nội dung được chia làm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương II: Các kiểu tương tác về hành vi hỏi - đáp qua lời thoại trong Tắt
đèn và Lều chõng của Ngô Tất Tố.
Chương III: Vai trò, tác dụng của sự tương tác về hành vi hỏi – đáp qua lời
thoại trong Tắt đèn và Lều chõng của Ngô Tất Tố.