Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan chương "chất khí" và "cơ sở của nhiệt động lực học" lớp 10 thpt ban khoa học tự nhiên nhằm tuyển chọn học sinh giỏi vào lớp chuyên/đội tuyển
PREMIUM
Số trang
144
Kích thước
1.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1823

Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan chương "chất khí" và "cơ sở của nhiệt động lực học" lớp 10 thpt ban khoa học tự nhiên nhằm tuyển chọn học sinh giỏi vào lớp chuyên/đội tuyển

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

___________________

Bùi Thị Bảo Ngọc

SỬ DỤNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

CHƯƠNG “CHẤT KHÍ” VÀ “CƠ SỞ CỦA NHIỆT

ĐỘNG LỰC HỌC” LỚP 10 THPT BAN KHOA HỌC

TỰ NHIÊN NHẰM TUYỂN CHỌN HỌC SINH GIỎI

VÀO LỚP CHUYÊN/ĐỘI TUYỂN

Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý

Mã số : 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VĂN HOA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2009

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của tất cả các mặt khoa học kỹ thuật,

kinh tế xã hội của thế kỷ XXI thì năng suất và chất lượng của lao động con người

đang trở thành sức mạnh quan trọng trong phát triển xã hội. Việc tìm kiếm tích cực

những thanh thiếu niên có năng khiếu cao và đào tạo họ trở thành người tài phục vụ

cho sự phát triển của đất nước đang là quốc sách không chỉ của các nước phát triển

mà cả những nước đang phát triển cũng rất quan tâm [32].

Theo quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng

Chính phủ, chiến lược phát triển giáo dục từ năm 2001 đến 2010 là “phải đổi mới

và hiện đại hóa phương pháp giáo dục, chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động

thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy; dạy cho người học

phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân

tích tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động của

học sinh trong quá trình học tập...”. Với chủ trương trên, việc thay đổi phương pháp

giảng dạy và học tập nhằm tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy tính chủ động,

sáng tạo và năng lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh (HS) trong khi giáo viên

(GV) giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển, định hướng quá trình dạy

học đã được áp dụng cho chương trình THPT bắt đầu từ năm học 2006-2007 thông

qua bộ sách giáo khoa (SGK) mới.

Phương pháp dạy và học thay đổi bắt buộc phương pháp kiểm tra và đánh giá

kết quả học tập của HS cũng thay đổi cho phù hợp, nó giữ một trong những vai trò

quan trọng góp phần quyết định chất lượng trong đào tạo, là một khâu không thể

thiếu trong quá trình giáo dục. Và hiện nay, hình thức đánh giá kết quả học tập bằng

câu hỏi trắc nghiệm khách quan là công cụ được sử dụng rộng rãi trong tất cả các kỳ

thi, kể cả thi tốt nghiệp phổ thông và thi đại học.

Với tinh thần đổi mới như vậy, công tác đào tạo học sinh giỏi (HSG), HS các

lớp chuyên vẫn không nằm ngoài quy luật đó (mặc dù hiện nay, các kỳ thi HSG cấp

thành phố và cấp quốc gia vẫn tổ chức thi theo hình thức cũ: hình thức tự luận). Bởi

vì bên cạnh việc tham gia các kỳ thi HSG, phần lớn các HS chuyên vẫn phải tham

dự các kỳ thi tú tài và tuyển sinh đại học - cao đẳng như các HS khác – các kỳ thi

này đang được tổ chức theo hình thức trắc nghiệm khách quan (TNKQ). Và nếu thử

nhìn ra các nước như Trung Quốc, Mỹ, Canada, Thụy Sỹ..., các kỳ thi HSG (thường

được gọi là các kỳ thi Olympic) đã được tổ chức với nội dung đề thi rất đa dạng,

phong phú, không chỉ gồm các bài toán tự luận, bài thực hành mà có cả phần TNKQ

[16], [20], [22], [23], [38]...

Hiện nay, quy chế trường chuyên [8] đã được nhà nước ban hành và các tỉnh

thành đã có nhiều đầu tư, quan tâm đến việc tuyển chọn HSG nhằm đào tạo, bồi

dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, việc kiểm tra đánh giá trong trường

chuyên vẫn chưa đáp ứng đầy đủ, tương xứng với việc đổi mới chương trình giáo

dục, trình độ của HS.

Theo chỉ thị đã ban hành của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân,

một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành giáo dục trong năm học 2007-

2008 là “đẩy mạnh công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu nhằm tạo

tiền đề cho công tác bồi dưỡng nhân tài... đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất

nước ở mỗi tỉnh, thành phố”. Để làm được điều này, các trường THPT chuyên hoặc

lớp chuyên ở các trường THPT thường đều tuyển chọn HS có năng khiếu ngay từ

đầu vào. Bên cạnh đó, sau một thời gian, một số HS sẽ có thể không theo kịp với

chương trình chuyên, trong khi ở những lớp thường không thiếu các HS có năng

khiếu. Như vậy, việc tuyển chọn hoặc bổ sung thêm những HSG cho lớp chuyên/đội

tuyển là cần thiết, không chỉ có lợi cho chính các em mà cho cả công tác đào tạo

nhân lực, bồi dưỡng HSG của nhà trường, của thành phố.

Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài “Sử dụng

câu hỏi trắc nghiệm khách quan chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động

lực học” lớp 10 THPT ban khoa học tự nhiên nhằm tuyển chọn học sinh giỏi vào

lớp chuyên/đội tuyển”

2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu phương pháp TNKQ nhằm xây dựng đề kiểm tra để tuyển chọn

HSG từ các lớp 10 thường vào lớp chuyên/đội tuyển hoặc thay thế một số học sinh

yếu trong lớp chuyên ở phần kiến thức chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động

lực học” lớp 10 THPT ban khoa học tự nhiên.

3. Giả thuyết khoa học

Nếu có một đề kiểm tra được xây dựng một cách khoa học và phù hợp thì sẽ:

- chọn được các HS giỏi, có khả năng về môn Lý từ các lớp 10 thường ban

nâng cao để bổ sung vào lớp chuyên Lý.

- giúp loại ra một số HS yếu, không đủ sức để tiếp tục theo chương trình

chuyên của lớp chuyên.

- giúp kiểm tra mức độ nắm kiến thức cơ bản của HS lớp chuyên - đây là

một nhược điểm thường gặp của các em: có thể giải được các bài toán nâng cao

nhưng lại làm không tốt ở các câu hỏi kiến thức đơn giản và dễ.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

4.1. Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 10 chuyên Lý và một số lớp 10 ban A

(lớp 10A2, 10SN2, 10CH, 10CT) trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong - TPHCM.

4.2. Đối tượng nghiên cứu: Soạn thảo một để kiểm tra TNKQ ở phần kiến thức

chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động lực học” nhằm tuyển chọn HSG từ các

lớp 10 thường ban khoa học tự nhiên vào lớp chuyên/đội tuyển.

5. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu phương pháp TNKQ và nội dung chương trình của lớp 10

THPT ban khoa học tự nhiên, chương trình chuyên Lý 10 để xây dựng đề kiểm tra

dựa trên kiến thức của hai chương chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động lực

học” nhằm tuyển chọn HSG từ các lớp 10 thường ban khoa học tự nhiên trường

THPT Chuyên Lê Hồng Phong vào lớp chuyên, hoặc tuyển chọn HS từ lớp chuyên

Lý vào đội tuyển, hoặc có thể giúp GV lọc ra những em HS yếu trong lớp chuyên

không đủ khả năng tiếp tục chương trình chuyên (nhằm giảm bớt áp lực cho những

HS này và tạo điều kiện cho các em được học trong môi trường phù hợp với mình

nhất).

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp đánh giá câu hỏi (CH) TNKQ

theo lý thuyết trắc nghiệm cổ điển và lý thuyết trắc nghiệm hiện đại.

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng khiếu, tài năng.

- Nghiên cứu nội dung chương trình chương “Chất khí” và “Cơ sở của

nhiệt động lực học” lớp 10 THPT ban khoa học tự nhiên.

- Nghiên cứu nội dung chương trình phần Chất khí lý tưởng – Nhiệt học

lớp 10 chuyên.

- Tìm hiểu thực trạng dạy và học của HS ở các lớp chuyên, trường chuyên.

- Vận dụng cơ sở lý luận để xây dựng đề kiểm tra TNKQ thuộc phần kiến

thức của hai chương trên.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng.

- Phân tích kết quả thực nghiệm để đánh giá hệ thống câu hỏi đã ra trong

đề kiểm tra, so sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm – lớp đối chứng và so sánh với

kết quả học tập cả năm, kết quả thi học sinh giỏi thành phố vòng 1 hoặc kỳ thi

Olympic 30/4 để rút ra kết luận cho đề tài này.

7. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu lý luận: nghiên cứu và xử lý thông tin từ sách, báo, tạp chí,

tài liệu về các vấn đề liên quan đến đề tài đồng thời nghiên cứu nội dung, chương

trình chương “Chất khí” và “Cơ sở của nhiệt động lực học” lớp 10 THPT ban khoa

học tự nhiên và lớp 10 chuyên.

- Thực nghiệm sư phạm: để đánh giá tính giá trị, độ tin cậy của đề trắc

nghiệm; hiệu quả của việc sử dụng CH TNKQ nhằm chọn HSG vào lớp chuyên/đội

tuyển.

- Điều tra khảo sát: lập phiếu điều tra khảo sát nhằm đánh giá sơ bộ những

nhận xét cuả HS trong việc áp dụng đề kiểm tra TNKQ để tuyển chọn HSG vào lớp

chuyên, các nguyên nhân ảnh hưởng trong quá trình làm bài và việc lựa chọn các

hình thức kiểm tra để đánh giá quá trình học của HS.

- Thống kê toán học: để xử lý, thống kê, đánh giá kết quả thực nghiệm sư

phạm.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐO LƯỜNG TRONG GIÁO DỤC VÀ PHƯƠNG

PHÁP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

1.1. Đo lường trong giáo dục

Đo lường là phép so sánh một đại lượng nào đó với một vật chuẩn đã biết, và kết

quả là đưa ra các con số để đánh giá [26, tr.13]

Trong một quá trình giáo dục bất kỳ, việc đánh giá hành vi của một người nào

đó trong một tình huống nhất định nhằm biết được những biến đổi xảy ra trong

người đó ở mức độ nào khi tham gia vào quá trình giáo dục đó.

1.1.1. Phân loại các phương pháp đo lường và đánh giá trong giáo dục [9], [25],

[27], [28]

 Theo cách thực hiện việc đánh giá:

Loại quan sát: giúp đánh giá các thao tác, hành vi, phản ứng vô thức, kỹ năng

thực hành, một số kỹ năng về nhận thức (cách giải quyết vấn đề trong một tình

huống đang được nghiên cứu).

Loại vấn đáp: nhằm đánh giá khả năng ứng đáp các câu hỏi được nêu một cách

tự phát trong một tình huống cần kiểm tra (cũng thường sử dụng khi sự tương tác

giữa người hỏi và người đối thoại là quan trọng, xác định thái độ của người đối

thoại).

Loại viết: giúp đánh giá được nhiều thí sinh cùng lúc, có thể đánh giá một số loại

tư duy ở mức độ cao … Được chia thành hai nhóm chính:

 Nhóm các câu hỏi tự luận: câu hỏi được trả lời dưới dạng mở, thí sinh

tự trình bày ý kiến của bản thân bằng hình thức viết để trả lời câu hỏi được nêu.

 Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm khách quan: câu hỏi nêu lên vấn đề và

những thông tin cần thiết để thí sinh có thể trả lời một cách ngắn gọn.

Bảng 1.1. Phân loại các phương pháp đánh giá thành quả

học tập theo cách thực hiện việc đánh giá

QUAN

SÁT

VIẾT

VẤN

ĐÁP

TRẮC NGHIỆM

TỰ LUẬN

TRẮC NGHIỆM

KHÁCH QUAN

Tiểu luận

Cung cấp thông tin

Ghép đôi

Điển khuyết

Đúng sai

Nhiều lựa chọn

……

CÁC

PHƯƠNG

PHÁP

ĐÁNH

GIÁ

THÀNH

QUẢ

HỌC TẬP

 Theo mục tiêu của việc đánh giá:

Đánh giá trong tiến trình: được sử dụng trong quá trình dạy và học nhằm có

được những phản hồi từ học viên, từ đó giúp xem xét thành công, trở ngại trong

việc dạy và học và đưa ra cách khắc phục. Loại đánh giá này thường gắn chặt với

người dạy, độ chính xác vừa phải và có thể thảo luận, điều chỉnh khi có sai sót.

Đánh giá tổng kết: nhằm tổng kết những gì đạt được và xếp loại học viên, lựa

chọn học viên thích hợp để tiếp tục đào tạo hoặc sử dụng trong tương lai; giúp đánh

giá tính hiệu quả của việc dạy và học. Loại đánh giá này có thể và nên tách khỏi

người dạy, thường bám sát vào mục tiêu dạy học nên đòi hỏi độ chính xác cao và

khó điều chỉnh khi sai sót.

 Theo phương hướng sử dụng kết quả đánh giá:

Đánh giá theo chuẩn: được sử dụng để xác định mức độ thực hiện của một cá

nhân so với các cá nhân khác trong cùng một nhóm cùng thm gia vào tiến trình

đánh giá trên.

Đánh giá theo tiêu chí: được sử dụng để xác định mức độ thực hiện của một cá

nhân so với các tiêu chí xác định trước của môn học hoặc chương trình học.

1.1.2. Phân loại các mục tiêu giáo dục

 Lĩnh vực nhận thức

Trong lĩnh vực này, cá nhân thể hiện ở khả năng suy nghĩ, lập luận và đánh giá

có phê phán; được B. Bloom và các cộng sự chia thành 6 mức độ hành vi từ đơn

giản đến phức tạp như bảng 1.2.

Bảng 1.2. Các mức độ của mục tiêu nhận thức

Đánh giá

Tổng hợp

Áp dụng

Phân tích

Hiểu

Biết

- Biết: là sự nhớ, thuộc lòng, nhận biết được và có thể tái hiện các dữ liệu, các

sự việc đã biết hoặc đã học trước đây.

- Hiểu: là khả năng nắm được ý nghĩa của kiến thức bằng việc chuyển kiến

thức từ dạng này sang dạng khác, giải thích, mô tả bằng ngôn từ của bản thân và

ước lượng được xu hướng tương lai.

- Áp dụng: là khả năng sử dụng kiến thức đã học vào một hoàn cảnh cụ thể

mới.

- Phân tích: là khả năng phân chia một kiến thức, một tài liệu ra thành các

phần của nó sao cho có thể hiểu được các cấu trúc tổ chức của nó, khả năng này đòi

hỏi một sự thấu hiểu cả nội dung và hình thái cấu trúc của tài liệu.

- Tổng hợp: là khả năng sắp xếp các bộ phận lại với nhau để hình thành một

tổng thể mới. Khả năng này nhấn mạnh các yếu tố sáng tạo, đặc biệt là việc hình

thành các mô hình hoặc cấu trúc mới.

- Đánh giá: là khả năng xác định giá trị của tài liệu, phán quyết được về những

tranh luận, bất đồng ý kiến về tài liệu dựa trên các tiêu chí nhất định.

 Lĩnh vực tình cảm

Lĩnh vực này liên quan đến những đáp ứng về mặt tình cảm, trong đó có cả

những mối quan hệ như yêu - ghét, thái độ nhiệt tình - thờ ơ …; được đề xuất phân

loại bởi nhóm nhà tâm lý học do David Krathworl chủ trì.

- Tiếp nhận: thể hiện độ nhạy cảm đối với việc tồn tại các kích thích.(sự tự

nguyện tiếp nhận, sự quan tâm có lựa chọn)

- Đáp ứng: thể hiện sự quan tâm tích cực đối với sự tiếp nhận, sự tự nguyện

đáp ứng và cảm giác thoả mãn.

- Chấp nhận giá trị: thể hiện niềm tin và sự chấp nhận giá trị, sự ưu chuộng

hơn và sự cam kết.

- Tổ chức: thể hiện sự khái quát hoá các giá trị và tổ chức hệ thống giá trị.

- Đặc trưng hoá: bao gồm sự tiếp nhận một tập hợp các giá trị và khái quát

thành đặc trưng hay triết lý của cuộc sống.

 Lĩnh vực tâm lý vận động (lĩnh vực kỹ năng)

Đây là lĩnh vực liên quan đến những kỹ năng đòi hỏi sự khéo léo chân tay, sự

phối hợp các cơ bắp và khả năng của thân thể từ đơn giản đến phức tạp. Cách phân

loại dưới đây do E. J. Simpson đề xuất.

- Nhận biết: các đối tượng, tính chất hoặc quan hệ được nhận biết thông qua

các cơ quan cảm xúc, đây là bước đầu tiên và quan trọng trong chuỗi trạng thái -

giải thích - hành động dẫn đến thao tác.

- Bố trí: là sự điều chỉnh chuẩn bị cho một loại hoạt động hoặc trải nghiệm;

gồm ba phương diện là tâm linh, thể chất và cảm xúc.

- Đáp ứng được hướng dẫn: là một thao tác hành vi thể hiện của cá nhân dưới

sự hướng dẫn của cá nhân khác, là bước đầu của sự phát triển một kỹ năng thao tác.

- Cơ chế: ở mức độ này cá nhân đạt được sự tự tin và một mức kỹ năng để

thực hiện một thao tác.

- Đáp ứng thể hiện phức tạp: cá nhân có thể thực hiện một thao tác phức tạp do

mô hình vận động đòi hỏi một cách có hiệu quả trong khoảng thời gian ngắn nhất.

1.2. Những vấn đề chung về trắc nghiệm khách quan [9], [25], [27], [28], [30]

1.2.1. Khái niệm về trắc nghiệm

Trắc nghiệm là một công cụ đo lường tâm lý, đo lường giáo dục nhằm đánh giá

thành quả học tập. Đây là một loại công cụ đo lường khả năng của người học, ở bất

kỳ cấp học nào, bất kỳ môn học nào, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên hay khoa học

xã hội [30].

Phương pháp trắc nghiệm tự luận (TNTL) (hay còn gọi là phương pháp luận đề)

là loại hình câu hỏi hoặc bài tập mà HS phải tự viết đầy đủ các câu trả lời hoặc bài

giải theo cách riêng của mình.

Phương pháp TNKQ là loại hình CH, bài tập mà phương án trả lời đã có sẵn,

hoặc nếu HS phải tự viết câu trả lời thì câu trả lời phải là câu ngắn và chỉ duy nhất

có một cách viết đúng. Trắc nghiệm này gọi là “khách quan” vì tiêu chí đánh giá là

đơn nhất, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người chấm.

1.2.2. So sánh phương pháp trắc nghiệm khách quan và phương pháp trắc

nghiệm tự luận

Hai phương pháp TNKQ và phương pháp TNTL có những ưu điểm và khuyết

điểm riêng. Bảng 1.3 dưới đây có sự so sánh dựa trên những đặc điểm chung trong

quá trình soạn đề của GV, làm bài của HS và khâu chấm bài của hai phương pháp

này.

Bảng 1.3 So sánh phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận

Trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm tự luận

- HS chỉ được chọn đáp án theo

những khả năng đã cho sẵn trong CH

- Bài trắc nghiệm có nhiều CH có tính

cách chuyên biệt nhưng đòi hỏi câu trả

lời ngắn gọn

- Thời gian làm bài chủ yếu để đọc và

- HS phải tự suy nghĩ và diễn đạt câu

trả lời bằng ngôn ngữ, cách hành văn của

bản thân

- Bài luận đề có ít CH có tính cách

tổng quát nhưng phải trả lời bằng lời lẽ

dài dòng

- Thời gian làm bài chủ yếu để suy

suy nghĩ

- Chất lượng bài làm phụ thuộc vào

kỹ năng của người ra đề

- Khó soạn, dễ chấm điểm và cho

điểm chính xác hơn

- Có thể dùng phương tiện kỹ thuật

hiện đại để chấm điểm và phân tích kết

quả

- HS chỉ chứng tỏ kiến thức thông qua

tỉ lệ câu trả lời đúng, người ra đề tự bộc

lộ kiến thức và giá trị của mình thông

qua việc đặt CH.

- Cho phép và đôi khi khuyến khích

sự “phỏng đoán” đáp án.

- Sự phân bố điểm số của bài làm do

bài trắc nghiệm quyết định.

nghĩ và diễn đạt

- Chất lượng bài làm phụ thuộc vào kỹ

năng của người chấm bài và các yếu tố

ngẫu nhiên khác (tâm trạng người chấm,

thứ tự các bài chấm, chữ viết...)

- Dễ soạn, khó chấm điểm và khó cho

điểm chính xác

- Không thể sử dụng phương tiện kỹ

thuật hiện đại để chấm bài cũng như

phân tích kết quả

- HS tự do bộc lộ suy nghĩ cá nhân,

người chấm tự do cho điểm theo xu

hướng riêng.

- Cho phép và đôi khi khuyến khích sự

"lừa phỉnh" đáp án thông qua việc sử

dụng ngôn từ hoa mỹ hay những bằng

chứng khó có thể xác định được.

- Sự phân bố điểm số của bài làm có

thể phần lớn do người chấm quyết định.

Thật ra, không có phương pháp nào hoàn toàn tốt hơn phương pháp nào, mỗi

phương pháp có những ưu thế riêng và những nhược điểm nhất định. Vấn đề còn lại

là phải nắm vững bản chất và việc triển khai cụ thể từng phương pháp sao cho có

thể sử dụng đúng quy trình, đúng lúc, đúng chỗ và mang lại hiệu quả cao nhất. Bảng

so sánh 1.4 rút gọn lại những ưu thế của mỗi phương pháp trong từng vấn đề.

Bảng 1.4 So sánh ưu thế

của phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận

Ưu thế thuộc về

Yêu cầu

PPTN PPTL

Ít tốn công ra đề 

Đánh giá được khả năng diễn đạt và tư duy của HS 

Đánh giá được khả năng tư duy sáng tạo của HS ở mức độ cao 

Đề thi có tính toàn diện, hệ thống 

Ít tốn công chấm thi 

Độ may rủi thấp, tránh học tủ 

Khách quan trong chấm thi, hạn chế tiêu cực 

Dễ bảo quản và giữ bí mật đề thi, hạn chế quay cóp khi thi 

Có thể sử dụng công nghệ đo lường để phân tích, nâng cao

chất lượng CH và đề thi

Có thể lưu giữ số liệu để sử dụng đánh giá trong giáo dục 

1.2.3. Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan thông dụng

Trong phương pháp TNKQ có nhiều kiểu CH khác nhau, và khi soạn thảo CH

trắc nghiệm, ta cần chú ý hai yêu cầu chung nhất:

 Phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp với HS.

 Không hỏi quan điểm riêng của HS, chỉ hỏi sự kiện, kiến thức.

Ngoài ra, mỗi loại câu trắc nghiệm khác nhau thì có những yêu cầu riêng khi

soạn thảo.

Ở đây tôi sẽ chỉ đề cập đến một số loại CH TNKQ được sử dụng trong phần

thực nghiệm của luận văn.

1.2.3.1. Loại câu điền khuyết

 Hình thức

Là những CH với giải đáp ngắn hoặc là những câu phát biểu với một hay nhiều

chỗ trống; HS phải tự nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào chỗ trống bằng một từ

hoặc một nhóm từ ngắn.

 Ưu khuyết điểm

Ưu điểm

- Loại CH này có thể xem vừa là loại CH trắc nghiệm khách quan vừa là loại

CH luận đề ngắn, một hình thức không thể thiếu trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi;

do đó có thể kiểm tra được một phần khả năng diễn đạt và suy luận của HS.

- Câu trả lời thường rất ngắn và cách cho điểm có thể khách quan hơn các CH

luận đề.

- Xác suất HS chọn được phương án đúng do ngẫu nhiên (độ may rủi) là

không có.

- Dễ biên soạn.

Khuyết điểm

- Cách chấm bài không dễ dàng: việc chấm điểm sẽ rất khó khăn và mất thời

gian vì rất khó có thể đoán trước được tất cả các cách trả lời khác nhau nhưng vẫn

đúng. Do đó, hình thức trắc nghiệm này đòi hỏi ở người chấm khả năng đánh giá

câu trả lời để tránh chấm sai. Bên cạnh đó, hình thức này cũng khó có thể dùng máy

để chấm.

- Điểm số không đạt được tính khách quan cao: bởi vì như đã phân tích ở trên,

hình thức này vẫn phải phụ thuộc một phần vào trình độ của người chấm và cách

dùng từ/cụm từ của HS.

 Một số lưu ý khi sử dụng

- Câu trả lời phải có tiêu chuẩn đúng sai rõ rệt và ngắn, nếu là một từ đơn nhất

có tính đặc trưng càng tốt (như người, vật, địa điểm, thời gian, khái niệm).

- Chỉ nên dùng một chỗ trống trong một câu. Tuy nhiên, đối với đối tượng

HSG thì ta có thể để nhiều chỗ trống trong một câu.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!