Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

quy chế thị trường và điều tra chống bán phá giá
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài:
QUY CHẾ PHY THỊ TRƯỜNG VÀ
ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
Lớp : Luật Kinh doanh K09501
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Dương Anh Sơn
MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................................................2
LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại quốc tế không phải là một cuộc chơi công bằng như những gì chúng
ta nhìn thấy, ở đó, quyền lợi của những quốc gia giàu có, quyền lực, luôn được đề cao và
bảo vệ, và những quốc gia thuộc thế giới thứ ba, đang phát triển chính là những đối
tượng phải chấp nhận những quy luật có sẵn, dù không phải bao giờ họ cũng được
hưởng lợi ích từ quy tắc cuộc chơi mang lại. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi mặt
hàng cá tra, cá ba sa của Việt Nam bị chính phủ Mỹ áp thuế chống bán phá giá gần 10
năm trời, và hiện nay vẫn chưa có động thái khả quan nào cho việc gỡ bỏ, dù cho Việt
Nam đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này cho thấy rằng,
chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ khi gia nhập thương mại quốc tế. Có thể thấy để
thoát khỏi tình trạng khó khăn cho Việt Nam trước nền kinh tế hội nhập chỉ có một con
đường là minh bạch hóa hoạt động kinh doanh và áp dụng nền kinh tế thị trường. Trong
đó, mối liên hệ giữa cớ chế phi thị trường và điều tra chống bán phá giá là vấn đề cần
được xem xét để tránh những hậu quả như vụ kiện cá da trơn, giày da, gạo, tôm…
Vậy thế nào là cơ chế thị trường, thế nào là là phi thị trường, tại sao phải áp dụng
cơ chế thị trường và tiến tới xóa bỏ cơ chế phi thị trường, điều tra bán phá giá có liên
quan gì đến quốc gia không được công nhận có nền kinh tế thị trường…Thực tiễn cho
thấy trong tất cả các vụ kiện bán phá giá mà ta đối mặt, điểm yếu lớn nhất dẫn đến sự
thua thiệt chính là cơ quan điều tra không tin tưởng những số liệu mà các doanh nghiệp
ta cung cấp, vì nước ta không được công nhận có nền kinh tế thị trường. Ta có thống kê
sơ bộ sau: tính đến tháng 3/2006 chúng ta đã phải đối phó với 21 vụ kiện chống bán phá
2
giá, trong đó có 13 vụ Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá. EU là nước khởi kiện
Việt Nam nhiều nhất (8 vụ) với mức thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxyde
kẽm. Trong phạm vi bài tiểu luận, chúng ta sẽ đi phân tích kỹ các ưu điểm của việc vận
dụng quy chế thị trường vào xuất khẩu, các biện pháp chống lại những cáo buộc phi lí
mà tòa án nước nhập khẩu gán cho các DN xuất khẩu, đặc biệt là việc suy ngẫm về các
bản án về bán phá giá mà Việt Nam là bị đơn. Bài học rút ra được từ những kinh nghiệm
quí báu này chính là hành trang không thể thiếu cho việc tiếp tục hội nhập trong tương
lai.
1. Một số nét khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trường và điều tra chống
bán phá giá
1.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường
1.1.1. Định nghĩa nền kinh tế phi thị trường
Bắt nguồn từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô
Viết năm 1935, khái niệm về Nền kinh tế phi thị trường đã bắt đầu xuất hiện. Sau thế
chiến thứ hai, xuất hiện thêm thuật ngữ “các quốc gia thương mại nhà nước”, đây là tên
gọi chung chon các quốc gia mà ở đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
ngoại thương, chủ yếu là ở các nước Đông Âu. Hiện tượng nhà nước độc quyền tuyệt
đối trong hoạt động giao dịch ngoại thương đã làm cho các nhà kinh tế học cũng như
chính trị gia chuyển sang nghiên cứu một đặc tính mới của hệ thống kinh tế phi thị
trường, có tên là hệ thống kế hoạch hóa tập trung. Theo đó, đã xuất hiện thuật ngữ “nền
kinh tế kế hoạch tập trung”, thuật ngữ này đã thay thế “nền kinh tế nhà nước kinh
doanh”. Trong Luật Hải quan Hoa Kỳ năm 1973, thuật ngữ “quốc gia nền kinh tế tập
trung” lần đầu tiên đã xuất hiện. Cùng thời kỳ đó, thuật ngữ “Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa” đã được đề cập trên thế giới. Với sự bắt đầu cải cách thị trường trong hầu hết các
nền kinh tế kế hoạch tập trung vào những năm 1980 và đầu 1990, hiện tượng này đã trở
thành phổ biến và được gọi là “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường”
(Transaction to a market economy). Tuy nhiên, cùng với sự xác định khái niệm “các
quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi” (transaction countries) thì thuật ngữ nền kinh tế
phi thị trường cũng được sử dụng lại.
Như vậy, Nền kinh tế phi thị trường được hình thành như một điều tất yếu trong sự
vận động và phát triển của kinh tế xã hội từ những năm đầu thế kỷ XX, nhằm xác định
ra các quốc gia có nền kinh tế chịu sự quản lý và can thiệp sâu của Nhà nước. Cơ quan
3
phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc (UNCTAD)1
đã đưa ra khái niệm để xác định
Nền kinh tế phi thị trường và Nền kinh tế thị trường như sau2
:
Một quốc gia được coi là có nền kinh tế thị trường khi nền kinh tế đó phải
dựa chủ yếu vào lực lượng thị trường để xác định mức độ của sản xuất, tiêu dùng, đầu tư
và tiết kiệm mà không có sự can thiệp của Chính phủ.
Một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường khi đó là thị trường mà Chính
phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng lớn thông qua cơ chế
quản lý tập trung, chẳng hạn như các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây, trái ngược với
nền kinh tế thị trường là phụ thuộc vào lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản
xuất. Trong nền kinh tế phi thị trường, mục tiêu sản xuất, giá cả, phân bổ đầu tư, nguyên
liệu thô, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết các tổ hợp kinh tế khác được điều
chỉnh bởi nền kinh tế kế hoạch được lập ra bởi cơ quan kinh tế kế hoạch tập trung; do
vậy, khu vực công đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cung và cầu trong
nền kinh tế quốc dân.
Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc cũng đã sử dụng thuật ngữ “các
quốc gia thương mại nhà nước” và “nhóm D”3
để phân biệt một nền kinh tế phi thị
trường với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ngày nay ít có quốc gia nào có hệ thống kế
hoạch tập trung hoàn toàn, mà có một số đặc điểm để nó được định hướng là một nền
kinh tế chuyển đổi. Ngoài Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc, cũng có
nhiều quốc gia đưa ra quy định để xác định một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
nhằm mục đích có biện pháp thích hợp để điều chỉnh trong quan hệ ngoại thương với
các quốc gia đối tác. Đơn cử như Hoa Kỳ, với sự phát triển và sức mạnh của mình trong
nền kinh tế hiện đại ngày nay, Hoa Kỳ là một quốc gia có thế lực và tầm ảnh hưởng lớn
đến hoạt động ngoại thương của nhiều nước trên thế giới. Trong Luật Thương mại 1974
của Hoa Kỳ có điều khoản điều chỉnh về thuế chống bán phá giá với các quốc gia có nền
kinh tế phi thị trường, và sử dụng quốc gia thay thế (quốc gia có nền kinh tế thị trường
và điều kiện phát triển thương mại tương đương với quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường đang bị xem xét) để quyết định về việc ấn định thuế chống bán phá giá đối với
1 United Nations Conference on Trade and Development – UNCTAD.
2 Dựa trên thuật ngữ hải quan của UNCTAD về Nền kinh tế thị trường (market economy - ME),
Nền kinh tế phi thị trường ( non – market economy - NME).
3 Gồm các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tham gia UNCTAD.
4