Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa thiêng
PREMIUM
Số trang
213
Kích thước
4.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1479

Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa thiêng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM ỬNG

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT

THƠ HUY CẬN QUA LỬA THIÊNG

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 62 22 34 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. MAI QUỐC LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

2

DẪN LUẬN

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nghiên cứu thơ Huy Cận tức là nghiên cứu một trong những gương

mặt thơ lớn của thời đại, một trong những nhà văn hóa có đóng góp đáng kể

cho sự nghiệp văn học, văn hóa dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.

Trên thi đàn Việt Nam vào những năm 1930-1945, từ phong trào Thơ

mới đã xuất hiện những tài năng thơ, trong đó có Huy Cận, Xuân Diệu… Nhà

phê bình văn học Hoài Thanh qua quyển Thi nhân Việt Nam đã nhận xét bước

đầu về phong cách của các nhà thơ trẻ: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca

Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao

giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ,

mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như

Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị

như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” [128, tr.

37]

Dấu ấn phong cách thơ Huy Cận đã bắt đầu từ tập Lửa thiêng (ra đời

năm 1940). Âm hưởng của tập thơ đã lan tỏa “một thời đại trong thi ca” (*tên

tiểu luận của nhà phê bình Hoài Thanh, đăng trong Thi nhân Việt Nam) từ

giữa thế kỷ XX đến nay.

Ngày nay, từ thế kỷ XXI, với cái nhìn mới, rộng mở chúng ta càng có cơ

hội nghiên cứu thấu đáo hơn phong cách thơ đặc sắc của Huy Cận trong giai

đoạn sáng tác trước Cách Mạng Tháng Tám (đặc biệt, nghiên cứu dày công về

tập Lửa thiêng).

1.2. Xã hội Việt Nam đang đổi mới, chuyển biến, hội nhập thế giới.

Hoạt động văn hóa nói chung đang được rộng mở. Các hoạt động lý luận, phê

3

bình văn học nghệ thuật mới của thế giới cũng được chúng ta nghiên cứu, gạn

lọc, tiếp thu trên tinh thần “học xưa vì nay”, “học ngoài vì trong”. Trong đó,

có thể kể đến sự gạn lọc, tiếp thu, vận dụng ở lĩnh vực nghiên cứu văn học.

Vì vậy, vấn đề nghiên cứu phong cách thơ Huy Cận trên cơ sở lý luận

tổng hợp mới có ý nghĩa cấp thiết trong việc góp phần phục vụ sự nghiệp đổi

mới, phát triển văn hóa, khoa học, giáo dục nước nhà.

Từ lòng ngưỡng mộ, yêu quý thơ ca Huy Cận, đặc biệt là tập thơ Lửa

thiêng (với những câu thơ từ lâu ám ảnh sâu sắc trong tâm thức người viết:

Một chiếc linh hồn nhỏ: Mang mang thiên cổ sầu); thêm nữa, từ những vấn đề

thú vị đặt ra ở trên trong bối cảnh mới, đã tạo động lực cho người viết suy

nghĩ, xác định và chọn lựa đề tài nghiên cứu Phong cách nghệ thuật thơ

Huy Cận qua Lửa thiêng.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở vận dụng một số đặc điểm lý luận văn học phương Đông

truyền thống và lý luận văn học phương Tây hiện đại quen thuộc, luận án cụ

thể hóa công việc tìm hiểu, khám phá thêm một số khía cạnh thi pháp thơ,

ngôn ngữ thơ đầy tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ Huy Cận. Và, cũng nhằm

làm nổi bật vấn đề nghiên cứu phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ

trong quá trình từ khi tập thơ ra đời, luận án tìm hiểu những ảnh hưởng và âm

hưởng của Lửa thiêng trong thời đại, so sánh đôi nét biểu hiện giống, khác

nhau giữa thơ Huy Cận và thơ Xuân Diệu với một số nhà thơ cùng thời hoặc

xuất hiện ở giai đoạn sau không lâu.

3. Lịch sử vấn đề

Tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận ra mắt bạn đọc vào tháng 11, năm

1940 (nhà xuất bản Đời Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn in ấn và phát hành,

khoảng 3.000 cuốn). Tập thơ do họa sĩ Tô Ngọc Vân trình bày bìa với lời đề

tựa của Xuân Diệu. Nhìn lại chặng đường dài 70 năm từ lúc Lửa thiêng ra đời

4

đến nay, qua khảo sát nhiều bài viết về tập thơ, người viết nhận thấy Xuân

Diệu có thể được xếp là người đầu tiên có bài nhận xét, đánh giá, giới thiệu

thơ Huy Cận với công chúng một cách bao quát và sớm nhất.

Xuân Diệu cảm nhận tinh tế Lửa thiêng - “nỗi thê thiết của ngàn đời”,

“lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế”. Lửa thiêng mang “hồn xưa” xôn xao, đượm

“một tấm lòng thương yêu không biết có tự đời nào, và đoạn thảm, hồi vui

cùng nhuốm một màu vĩnh viễn”. Là bạn tri kỷ, tri âm của Huy Cận, ngay từ

buổi đầu Lửa thiêng ra đời, ông đã “nghe”, đã “cảm” được “cảm giác không

gian” và “cái sầu của vũ trụ” của Huy Cận: “…ta nghe xa vắng quanh mình;

ta đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời

vợi dàn ra cho đến hư vô…”

Sau Xuân Diệu, hai nhà phê bình văn học Hoài Thanh- Hoài Chân có

bài nhận xét Lửa thiêng: “…Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình

thường, nhưng người luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng

lặng lẽ của thế giới bên trong…”, “Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông

Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi

đất này”. Hai nhà phê bình cũng cho rằng hồn thơ Huy Cận “trong cuộc viễn

du đã có lần nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian…”, với “con

đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch, tứ bề càng vắng lặng, mênh

mông…” [128, tr. 164-165]

Tâm trạng này, chính Chế Lan Viên qua một tứ thơ tương tự cũng đã bộc

bạch một cách đau đáu về sự cô đơn trên nẻo đường riêng của thơ ông:

Đường về thu trước xa lắm lắm

Mà kẻ đi về chỉ một tôi.

Theo dõi những diễn biến thơ ca trên thi đàn lúc bấy giờ, Lương An viết

trên báo Tràng An, số 12, tháng 3 năm 1941, tỏ ra khá ưu ái khi nhận xét Lửa

thiêng:

5

“Tập thơ Lửa thiêng là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như

về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và

tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một

tập thơ như thế là tất cả sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ

đáng chú ý nữa.

Lửa thiêng ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi

ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của

chàng sẽ được sống lâu.”

Trái với sự ngợi ca của nhiều người dành cho thơ Huy Cận, nhà phê bình

Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đánh giá Lửa thiêng có phần khe khắt

hơn. Ông nhận xét thơ tả cảnh của Huy Cận vẫn còn mang nét chung “cái cảm

giác của loài người từ thiên cổ mà thi nhân bao lần ca ngợi”, “...Huy Cận

nghệ sĩ ở chỗ đó và cũng thiếu cái đặc sắc của nhà thơ ở chỗ đó: ông đã không

đem cái tâm hồn của riêng ông để hòa cùng vũ trụ…” Vũ Ngọc Phan cũng

cho rằng thơ tả tình của Huy Cận không có những câu “nồng nàn, tha thiết,

nóng nảy như thơ Xuân Diệu”, “không nhớ nhung, đắm đuối như thơ Lưu

Trọng Lư”. Lời tình tự của Huy Cận “rất đẹp, rất êm đềm, nhưng thật không

phải những lời tha thiết tự tâm can…” [101, tr. 417-419]

Trong những thập niên 60, 70, và đặc biệt vào giữa đến cuối thập niên 80

của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam bắt đầu có những công

trình nghiên cứu mới dành cho trào lưu văn học lãng mạn 1930-1945. Phong

trào Thơ mới với tác phẩm của những nhà thơ tên tuổi như Thế Lữ, Lưu

Trọng Lư, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,

Bích Khê, Tế Hanh… được phân tích, đánh giá cởi mở hơn.

Ngoài những bài viết hoặc tiểu luận nghiên cứu về Huy Cận của Nguyễn

Xuân Nam, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Mã Giang Lân…,

một số chuyên luận của các tác giả Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ…

6

nghiên cứu sâu về Thơ mới đều đề cập và phân tích tập thơ Lửa thiêng của

Huy Cận.

Lửa thiêng không tách khỏi quỹ đạo chung của thơ ca lãng mạn giai

đoạn này nhưng vẫn có những điểm riêng qua cảm nhận thời đại và quan

niệm thẩm mỹ của Huy Cận. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Quan

điểm thẩm mỹ của các nhà thơ mới có nhiều điểm gặp gỡ với quan điểm nghệ

thuật của các nhà văn lãng mạn phương Tây thế kỷ XIX. Nói chung đó là

quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Và, tuy quan điểm mỹ học của các nhà

lãng mạn ở nước ta thực ra cũng chẳng có gì mới so với các nhà lãng mạn

phương Tây nhưng nó vẫn có những nét riêng, mới, lạ của thơ ca lãng mạn

Việt Nam giai đoạn này. Nét riêng này được thể hiện từ quan niệm thẩm mỹ

của thơ Thế Lữ với cái tôi nghệ sĩ là “cây đàn muôn điệu”; Xuân Diệu với

quan niệm thẩm mỹ hồn thơ là “những khúc nhạc thơm”, “khúc nhạc hường”;

Huy Thông đi tìm giấc mộng anh hùng trong lịch sử; Lưu Trọng Lư “hướng

cái nhìn vào một thế giới mơ màng”; còn “chàng Huy Cận ngày xưa hay sầu

lắm”, lại đi vào vũ trụ trăng sao…” [25, tr. 53]

Khảo sát phong trào Thơ mới như hệ quy chiếu từ thực tại xã hội đến

quan niệm sáng tác, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức nêu lên một số nội dung,

một số đề tài được tìm thấy trong thơ mới: “cái tôi” cô đơn; tình yêu mộng

tưởng; cảnh đẹp của thiên nhiên, sông núi, làng quê; tình yêu quê hương, đất

nước… Và, bóc tách ra lớp vỏ bên ngoài của thơ ca lãng mạn, Hà Minh Đức

nhận định cái “mạch ngầm” ý nghĩa trong Thơ mới: “Thơ mới chứa đựng

nhiều nỗi niềm, niềm vui gắn bó với từng cuộc đời đến những nỗi buồn riêng

thấm thía cô đơn và đau khổ. Trào lưu thi ca này như một tâm hồn trĩu nặng

ưu tư và xao động trong tình cảm buồn vui, xót xa. Những tình cảm này gắn

liền với từng cuộc đời thơ, nhưng cũng mang theo hơi thở chung của thời đại.

Đó là tiếng nói, tâm tình của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị trước một thực

7

tại không như mình mong muốn. Chế độ thực dân phong kiến ngày càng xiết

chặt xiềng gông lên số phận mỗi con người.” [32, tr. 665-669]

“Cái tôi” vốn bé nhỏ và bị gò bó trong cuộc sống hằng ngày, nên luôn

cảm thấy thiếu một tầm vóc, thiếu một tiềm lực. Các nhà thơ mới Huy Cận,

Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh… ít nhiều đều có những tứ thơ nói lên sự

khát khao được giải phóng khỏi sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội. Cái tôi trong

thơ mới là cái tôi bộc lộ, cái tôi cảm xúc đang mở hết các giác quan để nhận

biết thế giới xung quanh. Vũ trụ bao la, trời cao, biển rộng vẫn là những đối

tượng mà cảm hứng thi ca muốn vươn tới để hòa nhập. Phải chăng vì thế, nói

riêng trong Lửa thiêng, Huy Cận đã tìm đến vũ trụ bao la để tạo ra sự cảm

hóa, để giải tỏa tâm tình, bộc lộ “cái tôi” riêng biệt của thi nhân?

Phân tích riêng thơ Huy Cận với ý nghĩa “ngọn Lửa thiêng trong đời và

trong thơ”, Hà Minh Đức mô tả khá rõ nét cuộc hành trình tâm tư của một nhà

thơ trong tình yêu, nỗi sầu đời lẫn yêu đời, những khát vọng vũ trụ thanh cao.

Và, Hà Minh Đức giải thích nỗi buồn trong thơ Huy Cận: “Thơ Huy Cận

buồn, căn bệnh tinh thần của một thế hệ không dễ đổi thay; nhưng nỗi buồn

của Lửa thiêng không mang nhiều tính riêng tư, không gắn với dục vọng,

đam mê để rồi chán chường, tuyệt vọng. Vẫn có một mạch tình cảm trong

trẻo, thiết tha gắn bó ân cần với cuộc sống và nói như cách nói của tác giả sau

này, đó là tâm trạng “yêu đời nên đau đời”.”

Viết về “Thơ mới - những bước thăng trầm”, nhà nghiên cứu Lê Đình

Kỵ cũng dành không ít trang cho phần phân tích tập Lửa thiêng của Huy Cận.

Về cái nền chung, Thơ mới nằm trong thời kỳ văn học lãng mạn 1930-1945

bộc lộ sự đổi mới về mặt thi pháp và tư duy thơ một cách tất yếu. Cụ thể qua

sáng tác thơ ca, “những đổi mới ấy đã bộc lộ qua tư duy bằng liên tưởng,

bằng ấn tượng, cảm giác, bằng âm thanh, nhịp điệu, biến cái trừu tượng thành

cụ thể, nối dài cái cụ thể bằng cái trừu tượng, nội tâm hóa ngoại giới, ngoại

8

giới hóa nội tâm… do ảnh hưởng trực tiếp của tư duy thơ thời hiện đại…”

[62, tr. 458-461]

Trong chuyên luận mang tính lý luận, phê bình này, Lê Đình Kỵ nhận

xét “cái màu riêng của hồn thơ Huy Cận là sự “đơn chiếc”, “cô độc” cho đến

“chăn chiếu cũng mục cũng nở màu vĩnh viễn”. Huy Cận nói đến thời gian

“vạn kỷ”, “vĩnh viễn” tưởng như không phải là nỗi niềm riêng tư của một ai

đó, mà chính cuộc sống xã hội bấy giờ đã biến thiên như vậy.

Với sự hiểu biết uyên bác về thơ ca của một nhà nghiên cứu lý luận phê

bình văn học, Lê Đình Kỵ nêu ý kiến M. Gorky nhận xét thơ Verlaine như

một cách so sánh sâu sắc “trường hợp Lửa thiêng” của Huy Cận. Đó là:

“những bài thơ luôn luôn buồn bã và thấm thía một nỗi phiền muộn sâu xa

của thi sĩ, ta nghe rất rõ tiếng kêu gào của sự thất vọng, nỗi đau đớn của một

tâm hồn tinh tế và dịu dàng, tâm hồn đó luôn khao khát ánh sáng, khao khát

trong sạch, đi tìm Thượng đế nhưng không thấy, muốn yêu thương con người

nhưng không thể được.” [62, tr. 468]

Cùng trong thập niên 60, 70, ở Sài Gòn, không kể những quan điểm

xuyên tạc “nhà thơ tiền chiến” của một vài tác giả vùng văn học đô thị tạm

chiếm, phần nhiều, các tác phẩm như Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên

của Phạm Thế Ngũ hay Đi vào cõi thơ của Bùi Giáng, Dư vang nghệ thuật

của Trần Nhựt Tân… đã luận bàn, phân tích nhiều vấn đề liên quan đến tập

Lửa thiêng của Huy Cận.

Viết về hồn thơ Huy Cận qua Lửa thiêng, Phạm Thế Ngũ nêu một số

nhận xét tương đối bao quát những vấn đề cốt lõi trong thơ Huy Cận: tình yêu

thiên nhiên, sự mơ mộng trong tình yêu, nỗi buồn, tính suy tưởng về cuộc

đời… Phạm Thế Ngũ nhận xét thơ Huy Cận chất chứa nhiều “tình yêu mãnh

liệt nhưng hay giấu”; cùng đem thiên nhiên vào thơ nhưng ở thơ Xuân Diệu

“thiên nhiên thường sực nức hương vị tình yêu và ngôn ngữ ái tình”, còn Huy

9

Cận thích nói đến “núi sông, cây cỏ bình thản, lặng lẽ, hàm súc, như tâm hồn

tác giả”. Phạm Thế Ngũ nhận định thơ Huy Cận “hay sầu rồi trốn về đường

thơ triết, ngẫm nghĩ về sự tẻ nhạt của cuộc đời và suy tưởng về cái chết…”.

Điểm đáng chú ý ở đây, Phạm Thế Ngũ nhận xét nỗi buồn của Huy Cận là sự

phản ứng của thời đại: “…Thơ Huy Cận đào sâu cái buồn mênh mang ấy đã

góp phần bổ túc cho một đề tài muôn thuở, làm phong phú thơ mới, ở một

giai đoạn chuyên về đạo tình. Song ta có thể nói, qua năm 1938, ở xã hội Việt

Nam, cái vui vẻ trẻ trung người ta, kể cả thanh niên uống đã tới chỗ cạn đắng.

cái buồn của Huy Cận đây phải chăng là một phản ứng của thời đại. Người ta

nghĩ đến những lời rầu rĩ, bâng khuâng của Á Nam và Tản Đà. Chiếc linh hồn

nhỏ là tác giả Lửa thiêng, phải chăng như một cánh chim đầu đàn tiên cảm

cơn bão tố sắp tới” [99, tr. 575-579]

Có thể nói, những năm này, không khí “triết học hiện đại”, “triết học

hiện sinh”… nói chung được giới thiệu tương đối rộng rãi ở các trường đại

học vùng đô thị tạm chiếm. Đó là điều dễ hiểu khi một số lý thuyết, triết học

của Kant, Bergson, Nietzsche, Heidegger, Husserl, Sartre, Merleau Ponty…,

ít nhiều đã được Trần Nhựt Tân vận dụng vào việc nghiên cứu thơ ca theo

cách tiếp nhận “đa hệ” của ông. Qua các chương trong tiểu luận Dư vang

nghệ thuật [126], ông phân tích quan niệm: “thơ là cái Đẹp”; “mơ về cái

Đẹp”; “vũ trụ thi ảnh”; “âm điệu, nhạc tính trong thơ” v.v… Đáng chú ý,

trong việc chọn lựa một số tác phẩm thơ ca làm đối tượng nghiên cứu, Trần

Nhựt Tân đã đề cập và trích chọn khá nhiều câu thơ trong tập Lửa thiêng của

Huy Cận. Lửa thiêng được coi như một tác phẩm thơ ca Việt Nam tiêu biểu

nhất, bao trùm được những vấn đề nhà nghiên cứu đã phân tích, gửi gắm.

Riêng, trường hợp Bùi Giáng đối với Huy Cận cũng là một “hiện tượng

văn học” khá đặc biệt. Nhà thơ Bùi Giáng tự nhận ông chịu ảnh hưởng hồn

thơ Huy Cận từ năm 16 tuổi khi học trung học ở Huế. Cách đánh giá của Bùi

10

Giáng về thơ ca nói chung thường thiên về trực cảm, có phần “lập dị” nhưng

luôn để lộ kiến thức thật uyên bác về văn học Đông, Tây kim cổ. Ông say mê

đọc thơ, thuộc thơ và bộc lộ cảm nhận thơ Huy Cận theo suy nghĩ rất riêng,

đầy cảm hứng mênh mang, sâu sắc, mạnh mẽ. Chẳng hạn, với sự thụ cảm, suy

luận về thơ Huy Cận, Bùi Giáng “tuyên bố” quả quyết “…Tình yêu và lữ thứ,

lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa thiêng”

[34]

Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, sự

đổi mới nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam đã tác động đến tình

hình văn chương, học thuật Việt Nam đương đại. Sự vận dụng phương pháp

nghiên cứu văn học dựa vào thi pháp học, ngôn ngữ học, phân tâm học…

được tìm thấy qua nhiều bài viết và công trình nghiên cứu phong phú có liên

quan đến Thơ mới nói chung, hay có “chạm” ít nhiều đến thơ Huy Cận nói

riêng. Đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ này, không phân biệt thế

hệ tuổi tác, có thể kể tên: Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Trần

Khánh Thành, Lý Hoài Thu, Lý Toàn Thắng, Đỗ Lai Thúy, Lê Tiến Dũng,

Ngô Văn Phú, Vũ Quần Phương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đăng Điệp, Vu

Gia, Chu Văn Sơn, Trần Huyền Sâm, Bùi Quang Tuyến, Trần Thiện Khanh,

Lê Thị Anh v.v…

Tham khảo chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận, người viết tìm thấy công

trình nghiên cứu công phu của Trần Khánh Thành về thơ Huy Cận (công trình

nghiên cứu này bao quát những tác phẩm từ tập Lửa thiêng đến những tập thơ

sáng tác sau Cách Mạng Tháng Tám). Dưới góc độ thi pháp học, ông phân

tích quan niệm nghệ thuật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, các

phương thức biểu hiện và cái tôi trữ tình với nhiều đối cực trong thơ Huy

Cận. Nhận định Huy Cận không tách rời hình tượng con người cô đơn với nỗi

buồn sầu, tình yêu mộng mơ… qua Lửa thiêng, Trần Khánh Thành mô tả và

11

chứng minh “cái tôi trữ tình hài hòa luôn vận động giữa nhiều đối cực xuyên

suốt, so sánh với giai đoạn sáng tác thơ của Huy Cận sau này”… Đó là sự thể

hiện “niềm khát vọng của nhà thơ là tìm đến cái đẹp hài hòa giữa cuộc đời và

vũ trụ, giữa cuộc đời riêng và cuộc đời chung, giữa cảm hứng lãng mạn và

cảm hứng hiện thực, giữa cảm xúc tươi tắn và tầm cao trí tuệ…” [132, tr. 56-

57]

Người nghiên cứu sâu về tiến trình thơ ca Việt Nam hiện đại, ngoài

những chuyên đề về các nhà thơ, gần đây nhất, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân

đã trở lại chuyên đề Cấu trúc câu thơ Lửa thiêng của Huy Cận, đăng trên Tạp

chí Văn Học. Qua bài viết, Mã Giang Lân bộc lộ rõ sự chú trọng của ông về

ngôn ngữ nghệ thuật thơ. Với hướng phân tích này, ông đã phát hiện thêm

một số chi tiết nghệ thuật mới mẻ của câu thơ Lửa thiêng và góp thêm một

vệt nghiên cứu mới về thơ Huy Cận. [66]

Ngoài ra, người viết còn ghi nhận nhiều thông tin từ mảng bài nghiên

cứu, đánh giá cuộc đời, sự nghiệp hay hồi ức và kỷ niệm về Huy Cận - một

nhà thơ, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, sau khi ông qua đời (19-2-2005). Đó

là những bài báo, bài nghiên cứu đăng tải trên các báo in, báo điện tử: Nhân

Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Văn Nghệ, tạp chí Hồn Việt, Sông Hương, Hà

Tĩnh, Bình Định… của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ: Phan Cự Đệ,

Hà Minh Đức, Mai Quốc Liên, Hữu Thỉnh, Giang Nam, Trần Phương Trà,

Nguyễn Trọng Tạo, Mai Hồng, Trần Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo, Lê Thị

Hồng Minh, Ngô Văn Phú, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Sỹ Đại, Vương Trí

Nhàn, Lê Minh Quốc, Nguyễn Thanh Mừng…

Mặt khác, người viết cũng tìm hiểu, chọn lọc, tham khảo một số bài viết

về thơ Huy Cận của các nhà nghiên cứu Việt Nam ở hải ngoại như Đặng Tiến,

Thụy Khuê… Thực tế cho thấy các bài viết này khá chú trọng đến tập thơ

Lửa thiêng của Huy Cận (nhất là Đặng Tiến với chuyên đề Huy Cận trong

12

tôi). Nhìn chung, những bài viết của các tác giả ở hải ngoại ít nhiều đều vận

dụng lý thuyết thi pháp cấu trúc luận của Roman Jakobson; điều đó cho thấy

“dấu vết” nghiên cứu ngữ học bao trùm ảnh hưởng một thời trong giới nghiên

cứu văn học ở phương Tây.

Phần nghiên cứu giới thiệu thơ Huy Cận trong văn chương Việt Nam ở

mảng tiếng Pháp có tập “Marées de la Mer Orientale” (Nước triều Đông),

Orphée La Différence xuất bản năm 1994 với lời giới thiệu của nhà Việt Nam

học nổi tiếng, Paul Schneider (Pháp). Ngoài phần mở đầu nhận xét chung về

thơ ca Việt Nam, Paul Schneider đã giới thiệu phần viết riêng về thơ Huy

Cận. Nước triều Đông gồm nhiều bài thơ trong những chặng đường sáng tác

của Huy Cận, trong đó có phần trích dịch các bài thơ từ tập Lửa thiêng:

Ngậm ngùi (Mélancolie), Đi giữa đường thơm (La route parfumée), Thu rừng

(Automne dans la forêt), Tình tự (Confidence d’amante), Áo trắng (La robe

blanche), Gánh xiếc (Le cirque), Tràng giang (Fleuve immense). Đặc biệt, lời

nhận xét khái quát thơ Huy Cận trong văn học Việt Nam, Paul Schneider đã

nêu lên một khía cạnh tương đồng giữa Nguyễn Trãi và Huy Cận: hai nhà thơ

đều sáng tác thơ ca trước khi hoạt động kháng chiến. Nguyễn Trãi từng ở

Côn Sơn trong thời gian ngắn trước khi đi theo cuộc kháng chiến của Lê Lợi.

Ông đã có bài thơ hay Quy Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác. Bài thơ biểu hiện sự

gặp gỡ giữa con người thơ ca và con người dấn thân, yêu nước. Huy Cận cũng

bộc lộ hai khía cạnh thơ ca và hoạt động cách mạng: tập thơ đầu tay Lửa

thiêng của ông đã gặt hái thành công vào năm 1940; sau đó, ông đã tham gia

phong trào Việt Minh… [190, tr. 7-10]

Về bản tiếng Anh, quyển “Vietnamese Literature” (Văn chương Việt

Nam), Red River, Nhà xuất bản Ngoại văn xuất bản năm 1979, do Nguyễn

Khắc Viện và Hữu Ngọc chủ biên cùng đội ngũ dịch thuật: Mary Cowan,

Carolyn Swetland, Đặng Thế Bính, Paddy Parrington, Elizabeth Hodgkin, đã

13

giới thiệu khái quát lịch sử văn chương Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XX.

Trong phần dịch sang bản tiếng Anh, tập Lửa thiêng (Sacred Fire) được giới

thiệu hai bài: Nhạc sầu (Music for the dead) và Tràng giang (Vast river).

Tóm lại, về lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Huy Cận qua tập Lửa thiêng

có thể tính đến hàng trăm bài báo và nhiều chuyên luận dưới nhiều góc độ

nghiên cứu khác nhau theo thời gian và bối cảnh không gian khác nhau.

Nhưng, tựu trung, những vấn đề về cảm hứng thời đại, cảm hứng cô đơn của

con người với nỗi sầu vũ trụ, nỗi buồn thế kỷ, tình yêu thiên nhiên, tình yêu

quê hương, đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc, những suy tư về cuộc đời…

của Huy Cận, được các tác giả nhận định, phân tích, bàn luận tương đối có

nhiều điểm gặp gỡ, trùng hợp. Riêng về vấn đề phong cách thơ Huy Cận có

đặt ra trong một số bài viết của Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Văn Long, Hà

Minh Đức, Trần Khánh Thành, Mã Giang Lân…, nhưng phần lớn, các tác giả

chỉ nêu một cách khái quát hoặc nhận xét rải rác những khía cạnh chung khi

khảo sát thơ Huy Cận qua nhiều thời kỳ sáng tác; hoặc có công trình chỉ đề

cập vài nét phong cách thơ Huy Cận, chủ yếu qua những tác phẩm đươc nhà

thơ sáng tác từ những năm 1960 trở về sau…

Cho nên, xét trên góc độ nghiên cứu tổng hợp mới, tƣơng thích cho

việc tìm hiểu phong cách thơ Huy Cận nổi bật qua tập thơ Lửa thiêng,

người viết nhận thấy vẫn chưa có tác giả nào đề cập chuyên biệt. Tuy vậy,

xuất phát từ sự gợi mở của một số công trình nghiên cứu đi trước này, đã tạo

tiền đề quý báu, giúp người viết suy nghĩ sâu hơn việc nghiên cứu phong cách

thơ Huy Cận. Đó là việc nghiên cứu phong cách thơ với cách nhìn toàn

diện hơn trên cơ sở tìm hiểu tƣ tƣởng, triết học, tâm lý học sáng tạo, tƣ

duy nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật thơ ông. Với hướng nghiên cứu

tổng hợp mới, khi chọn lọc, tiếp thu các phương pháp nghiên cứu văn học từ

truyền thống đến hiện đại, người viết mong tìm thêm một cách tiếp cận mới,

14

hỗ trợ cách lý giải đề tài, nhằm mang lại hiệu quả thích ứng, phù hợp vấn đề

nghiên cứu.

Những cố gắng thực hiện đề tài luận án, ngoài niềm say mê của người

viết về thơ ca Huy Cận, còn là ước vọng mong muốn đóng góp thêm một vài

ý nghĩa hữu ích cho việc nghiên cứu, cảm thụ, thưởng thức văn chương một

cách đa dạng, đa chiều kích trong đời sống văn học hiện nay.

4. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án không chứng minh lại kết luận của các công trình nghiên cứu

trước về phong cách thơ Huy Cận đang tham khảo. Dựa trên cách thức tổng

hợp mới các phương pháp nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, nhiệm vụ luận án

lần lượt trình bày trong ba chương, nhằm chứng minh phong cách nghệ thuật

thơ Huy Cận qua Lửa thiêng. (Và, phong cách đó vẫn là cơ sở cho chặng

đường sáng tác sau này của nhà thơ).

4.2. Đối tƣợng nghiên cứu

Luận án chủ yếu nghiên cứu thơ Huy Cận, đồng thời so sánh với thơ

Xuân Diệu cùng một số nhà thơ khác của phong trào Thơ mới.

5. Phạm vi khảo sát

Luận án dựa vào thơ Huy Cận (tập Lửa thiêng), thơ Xuân Diệu (tập Thơ

thơ, Gửi hương cho gió) và thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu, Nguyễn

Xuân Sanh, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,

cùng một số nhà thơ khác sáng tác trong giai đoạn Thơ mới 1930-1945…; đối

chiếu khi cần thiết (nhưng có giới hạn) thơ ca của vài tác giả thuộc nhóm

Sáng Tạo.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đi tìm phương pháp nghiên cứu trong rừng lý thuyết mênh mông, người

viết cũng cần nói rõ: chỉ tham khảo, vận dụng vài lý thuyết nghiên cứu, nhằm

15

làm sáng tỏ thêm đề tài luận án, dưới góc độ nghiên cứu lịch sử văn học, hơn

là đi sâu vào lý luận văn học.

Tuy nhiên, một điều hiển nhiên và khách quan cho thấy: sự vận động

không ngừng của ngôn ngữ văn học, của các lý thuyết văn học trong đời sống

hiện nay vẫn đang diễn biến và luôn chịu sự tương tác qua lại của xã hội. Nhà

nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh đã nhận định trong lời giới thiệu công trình dịch

Chủ nghĩa cấu trúc và văn học [28] và gần đây nhất là bài đăng báo Văn

Nghệ Về khuynh hướng duy ngữ trong văn học hiện nay đều phân tích những

diễn biến văn học trên bình diện lý thuyết. Trịnh Bá Đĩnh phân định: “…hiện

nay xu hướng phê bình ngữ học hầu như đang chiếm ưu thế, nhất là trong khu

vực phê bình học viện.” Ông mô tả tiến trình của xu hướng được mệnh danh

“chủ nghĩa đế quốc ngôn ngữ học”, thế nhưng, xem ra tình hình của xu hướng

này ở phương Tây vào cuối thế kỷ XX đã và đang “lắng đọng”! Điều đó cho

thấy quy luật vận động của tư duy văn học không bao giờ đứng yên. Ở đoạn

kết bài viết, Trịnh Bá Đĩnh nhận định sâu sắc vấn đề: “văn học là một hiện

tượng rất phức tạp, một hiện tượng mang tính tổng hợp văn hóa rất cao, một

bộ phận không thể tách rời khỏi văn hóa thời đại. Làm nên nó không chỉ có

những thành phần của riêng nó như cách tự sự, cách cấu tạo, mà còn có những

thành phần khác của văn hóa như tâm lý thời đại, hệ tư tưởng, các nghệ thuật

khác. Mà mỗi thời đại lại không tách rời khỏi toàn bộ truyền thống văn hóa

quá khứ (trong mỗi thành tố nhỏ nhất của văn học cần nghe được tiếng vọng

nhiều thế kỷ đã qua) và cả những mơ ước, dự phóng về tương lai. Văn học

phải là sự tổng hợp của mỹ học của lời nói và mỹ học của cái được nói tới.

Không phải ngẫu nhiên mà văn học ngay từ khởi thủy cho đến ngày nay vẫn

kiên nhẫn kể về tình dục và quyền lực, về cái thiện, cái ác đích thực và giả

trang… Điều đó có nghĩa là văn học của chúng ta vẫn rất cần phải tiếp tục kể

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!