Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán ngân hàng công thương
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làm thế nào để thu hút được nhà đầu tư đến với TTCK và quan trọng
nâng cao được lòng tin của giới đầu tư đối với thị trường này?
Đây là một câu hỏi lớn đặt ra cho bất cứ TTCK nào. Đối với TTCK Việt
Nam, một thị trường còn non trẻ thì câu hỏi này càng trở nên có ý nghĩa.
Tạo điều kiện cho công chúng đầu tư tham gia vào thị trường và một khi
họ đã chấp nhận tham gia thị trường rồi thì phải làm thế nào để “giữ họ” ở lại
lâu dài là một công việc hết sức khó khăn. Chính vì thế hoạt động tư vấn đầu
tư cho nhà đầu tư của các Công ty chứng khoán lại trở nên cần thiết và không
thể thiếu được. Bởi lẽ đây là một hoạt động có vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao văn hóa đầu tư cho công chúng và việc tạo lòng tin của họ vào
TTCK. Tuy nhiên, TTCk Việt Nam hiện nay hoạt động tư vấn đầu tư chứng
khoán cho nhà đầu tư chưa được Chính phủ và các cơ quan quản lý, các Cty
chứng khoán quan tâm đúng mức, ngay cả chính các nhà đầu tư cũng chưa
nhận ra được lợi ích của tư vấn đầu tư chứng khoán. Hoạt động này vì vậy
còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải xem xét, nghiên cứu sâu hơn.
Những suy nghĩ trên cùng với quá trình quan sát trực tiếp việc triển khai
hoạt động này trong thời gian thực tập tại Công ty chứng khoán Ngân hàng
Công thương đã dẫn tôi đi đến quyết định lựa chọn đề tài “ Phát triển hoạt
động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng
Công thương”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài “ Phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty
chứng khoán Ngân hàng Công thương “ được thực hiện với mục đích nghiên
cứu lý luận hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán nói
chung và nghiên cứu thực trạng hoạt động nay đang diễn ra tại Công ty chứng
Thái Thị Hương Trang 1 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khoán Ngân hàng Công thương nói riêng từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
phát triển hoạt động này tại Công ty
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu của nó là lý thuyết về hoạt động tư
vấn đầu tư chứng khoán – một trong những hoạt động cơ bản của công ty
chứng khoán và thực tế của hoạt động này tại Công ty chứng khoán Ngân
hàng Công thương.
Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có rất nhiều mảng nhưng trong
phạm vi của đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu nội dung tư vấn đầu tư cho
nhà đầu tư cá nhân. Đây là một trong những vấn đề hiện nay chưa được quan
tâm đúng mức và còn nhiều những bất cập. Nhìn nhận từ thực tế hiện trạng
TTCK Việt Nam hiện nay cho thấy tư vấn đầu tư cổ phiếu cho nhà đầu tư cá
nhân là hình thức tư vấn phổ biến và cần thiết nhất nên đề tài nghiên cứu sâu
hơn hình thức tư vấn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng trên các quan điểm duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp thống kê toán,
tổng hợp so sánh, phân tích các số liệu.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu thành 3 chương
- Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
của công ty chứng khoán
- Chương 2: Thực trạng hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công
ty chứng khoán Ngân hàng Công thương
- Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương
Thái Thị Hương Trang 2 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1:
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG
1.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế
thị trường. Một trong những chỉ tiêu quan trọng và chính xác để đo lường
mức độ phát triển của một nền kinh tế đó là sự phát triển của TTCK.
Sản phẩm trên TTCK không giống với các hàng hóa thông thường khác
ở chỗ chúng là những hàng hóa đặc biệt. Đó không phải là những sản phẩm
hữu hình có thể cầm, nắm, sờ, ngửi, nếm hay cân đo đong đếm được mà đó là
những sản phẩm tài chính còn được gọi với tên phổ biến là chứng khoán.
Thực ra hình thức thể hiện của chứng khoán cũng giống như tiền – tức là
không có giá trị nội tại. Giá trị của nó chính là các cam kết lợi ích mà tổ chức
phát hành mang lại với những điều kiện ràng buộc cụ thể. Thuộc tính gắn liền
với chứng khoán là tính sinh lợi, tính rủi ro và tính thanh khoản. Chính vì
những đặc điểm này đã làm chứng khoán trở thành một loại hàng hóa cao
cấp, mà việc xác định giá trị thật không đơn giản. Trên TTCK, không phải
trực tiếp những người muốn mua hay bán chứng khoán trao đổi với nhau mà
mọi giao dịch phải được thực hiện qua khâu trung gian, đó là các công ty
chứng khoán. Trung gian là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTCK để
đảm bảo tính trật tự trên thị trường, hỗ trợ cho công tác quản lý thị trường
đồng thời đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Chính vì thế trên TTCK phải có
các nhà môi giới để đảm nhiệm khâu trung gian này.
Thái Thị Hương Trang 3 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK cho thấy ban đầu các nhà
môi giới thường là cá nhân hoạt động độc lập sau đó trải qua quá trình hoạt
động cùng với sự tăng lên của quy mô và khối lượng giao dịch các nhà môi
giới có xu hướng tập hợp theo một tổ chức nhất định – đó là các công ty
chứng khoán. Điều này chứng tỏ rằng người môi giới có thể là thể nhân hoặc
pháp nhân nhưng trên thực tế môi giới pháp nhân được nhà đầu tư và pháp
luật tin tưởng hơn.
Theo Giáo trình Thị trường chứng khoán xuất bản năm 2002 của Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội “ Công ty chứng khoán là một định chế tài chính
trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK ”. Ở Việt Nam, Cty chứng
khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại
Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình
kinh doanh chứng khoán.
Căn cứ vào loại hình kinh doanh chứng khoán nhất định mà Cty chứng
khoán thực hiện, người ta có thể chia Cty chứng khoán thành các loại sau:
- Công ty môi giới chứng khoán: là Cty chứng khoán chỉ đơn thuần
thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí.
- Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: bảo lãnh phát hành chứng
khoán là nghiệp vụ hoạt động chính của Cty chứng khoán và họ sẽ thu phí
hoặc hưởng chênh lệch giá từ hoạt động này.
- Công ty kinh doanh chứng khoán: là loại Cty chứng khoán dùng vốn
tự có của công ty tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường vì mục tiêu
lợi nhuận.
- Công ty trái phiếu: là Cty chứng khoán chuyên mua bán các loại trái phiếu
- Công ty chứng khoán không tập trung: là các Cty chứng khoán hoạt động
chủ yếu trên thị trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo là nhà tạo lập thị trường.
Như vậy, Cty chứng khoán là một chủ thể quan trọng không thể thiếu
trên TTCK. Họ là tổ chức trung gian kết nối giữa tổ chức phát hành với nhà
đầu tư, họ cũng có thể là nhà tạo lập thị trường và đồng thời là tổ chức cung
Thái Thị Hương Trang 4 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cấp các dịch vụ cần thiết phục vụ cho hoạt động giao dịch chứng khoán trên
thị trường.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán
Là một chủ thể kinh doanh, Cty chứng khoán cũng có những điểm tương
đồng với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, sản phẩm và dịch vụ mà Cty
chứng khoán cung cấp đều liên quan đến chứng khoán đã làm cho Cty chứng
khoán mang những đặc trưng khác riêng. Không những thế các Cty chứng
khoán ở các nước khác nhau cũng có thể có điểm khác nhau, thậm chí ở trong
cùng một quốc gia các Cty chứng khoán vẫn có nhiều sự khác biệt tùy thuộc
vào tính chất hoạt động của Cty và mức độ phát triển của thị trường. Song xét
về bản chất các Cty chứng khoán có một số đặc trưng cơ bản sau :
• Về loại hình tổ chức của Cty chứng khoán
Trong lịch sử và trên thực tế, Cty chứng khoán đã từng được tồn tại dưới
nhiều loại hình tổ chức như công ty cổ phần, doanh nghiệp góp vốn, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp liên doanh. Mỗi
loại hình này đều có những ưu thế, bất lợi riêng, trong đó loại hình doanh
nghiệp: công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn với những ưu điểm
về quyền sở hữu, khả năng huy động vốn, năng lực điều hành, tư cách pháp
lý… rất phù hợp với nghiệp vụ chứng khoán đã trở thành sự lựa chọn phổ
biến ở các quốc gia.
• Về mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán
Việc xác định mô hình tổ chức kinh doanh của Cty chứng khoán không
đơn giản chỉ là quyết định của bản thân công ty mà hơn thế nó mang tính
pháp luật, thể hiện ở chỗ: những người làm công tác quản lý Nhà nước sẽ cân
nhắc, lựa chọn ra mô hình phù hợp nhất với đặc điểm của hệ thống tài chính,
hệ thống pháp luật, mức độ phát triển của nền kinh tế. Từ đó, các Cty chứng
khoán chỉ được phép hoạt động theo những mô hình đã lựa chọn.
Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình phổ biến về Cty chứng khoán:
- Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán.
Thái Thị Hương Trang 5 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các Cty
chứng khoán độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận,
các ngân hàng không đuợc tham gia vào kinh doanh chứng khoán.
Với ưu điểm hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho
TTCK phát triển, mô hình này đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp
dụng, trong đó có các nước phát triển như: Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada,
Thái lan…
Những năm gần đây, các nước áp dung mô hình này có xu hướng nới
lỏng dần những hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán, từng bước xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa loại hình kinh
doanh tiền tệ và kinh doanh chứng khoán.
- Mô hình công ty đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại được phép thực hiện các
nghiệp vụ chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia
thành 2 loại:
+ Loại đa năng một phần: Muốn tham gia kinh doanh chứng khoán trên
TTCK, các ngân hàng thương mại phải thành lập Cty chứng khoán trực thuộc,
hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
+ Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép tham
gia hoạt động kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh
doanh tiền tệ và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật
Mô hình đa năng có ưu điểm là các ngân hàng thương mại có thể thực
hiện đa dạng hóa, giảm bới rủi ro, tăng khả năng chịu đựng những biến động
của thị trường tài chính. Bên cạnh đó, ngân hàng còn tận dụng được thế mạnh
về chuyên môn, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn, mạng lưới khách hàng để kinh
doanh chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ những hạn chế nhất
định như không thúc đẩy được thị trường cổ phiếu phát triển vì các ngân hàng
có xu hướng bảo thủ thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ
trên thị trường chứng khoán như: bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng
Thái Thị Hương Trang 6 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khoán, quản lý danh mục đầu tư. Và một khi thị trường có biến động thì nó có
thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nếu các ngân
hàng không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh tiền tệ và kinh doanh
chứng khoán.
• Về tính chuyên môn hóa và phân cấp quản lý
Các Cty chứng khoán chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng bộ phận,
từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ.
Nếu như ở các doanh nghiệp sản xuất, trong quy trình sản xuất sản phẩm
giữa các khâu phải có mắt xích kết nối, một sản phẩm ra đời nó phải trải qua tất
cả các công đoạn một, không thể thiếu một công đoạn nào. Trong khi đó, toàn bộ
các nghiệp vụ của Cty chứng khoán đều phục vụ cho các giao dịch chứng khoán
những mỗi một nghiệp vụ lại liên quan đến một góc cạnh riêng. Các phòng ban
khác nhau đảm nhiệm các công việc khác nhau như: môi giới, tự doanh,bảo lãnh
phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và ngay cả trong từng bộ phận các công
việc đều được phân công cụ thể, rõ ràng đến từng nhân viên.
Từ trình độ chuyên môn hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý và làm
nảy sinh việc có quyền tự quyết. Các bộ phận trong Cty chứng khoán nhiều
khi không phụ thuộc lẫn nhau ( ví dụ bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh,
hay môi giới và bộ phận bảo lãnh phát hành ). Giữa các phòng ban có một sự
độc lập tương đối, mối liên kết không phải mật thiết, hữu cơ như trong các
doanh nghiệp sản xuất khác,. Chính vì vậy hoạt động hay cơ cấu của phòng
ban này không tác động nhiều đến phòng ban khác.
• Về nhân tố con người
Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Chứng
khoán là một loại tài sản tài chính đặc biệt mà việc thẩm định chất lượng của
nó không phải giống như hàng hóa thông thường. Sự có mặt của môi giới trên
TTCK là cần thiết khi người đầu tư không biết được nhiều thông tin hay
không có khả năng phân tích thông tin một cách thích hợp để từ đó đánh giá
và quyết định hướng sử dụng vốn của mình.
Thái Thị Hương Trang 7 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với các Cty chứng khoán, với chức năng là tổ chức trung gian tài
chính thì khách hàng là mục tiêu số một, mục tiêu quan trọng nhất. Khách
hàng của Cty chứng khoán gồm các công ty phát hành chứng khoán, nhà đầu
tư chứng khoán. Như vậy, khách hàng của Cty chứng khoán cũng là chủ thể
tham gia trên TTCK có tư cách là người đại diện cho nguồn cung hoặc nguồn
cầu chứng khoán. Để có thể tồn tại và phát triển, Cty chứng khoán phải thực
hiện nguyên tắc “biết khách hàng của mình”, nắm rõ khả năng tài chính của
khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức kinh doanh và tôn trọng
khách hàng, luôn luôn đặt khách hàng lên trên hết.
Làm được điều này, Cty chứng khoán phải dựa vào chất lượng chuyên
môn, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý trong
công ty. Do đó, ở bất kỳ thời điểm nào Cty chứng khoán cũng thực sự chú
trọng đến nhân tố con người, thể hiện ở những điểm sau:
+ Thuê nhân viên phù hợp
+ Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
+ Có chế độ đãi ngộ và khuyến khích nhân viên
+ Có chính sách ưu đãi đối với nhân viên phù hợp với chiến lược quản lý
nhân lực
Có một điểm đặc biệt mà Cty chứng khoán khác với các công ty khác, đó
là trong công ty chứng khoán việc thăng tiến cất nhắc lên những vị trí cao hơn
là không quan trọng. Các chức vụ quản lý hay giám đốc trong công ty còn có
thể nhận được ít thù lao hơn so với một số nhân viên cấp dưới.
• Về ảnh hưởng của thị trường tài chính
Rõ ràng, Cty chứng khoán tham gia hoạt động trực tiếp trên TTCK thì
bất kỳ một biến động nào của TTCK nói riêng và thị trường tài chính nói
chung đều tác động sâu sắc đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và doanh thu
của Cty chứng khoán.
Thị trường tài chính, TTCK càng phát triển càng tạo ra nhiều công cụ tài
chính, có thêm nhiều dịch vụ, mở rộng phạm vi kinh doanh và quan đó một
Thái Thị Hương Trang 8 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mặt tạo cơ hội thu lợi nhuận cho Cty chứng khoán, mặt khác buộc các Cty
chứng khoán phải cải tiến, sáng tạo không ngừng để thích nghi với môi
trường hoạt động.
Tùy thuộc vào mức độ phát triển, quy mô của thị trường, phương thức
kinh doanh của chủ sở hữu, khách hàng… cơ cấu tổ chức của các Cty chứng
khoán cũng khác nhau để đáp ứng những nhu cầu riêng, từ đơn giản đến phức
tạp. Nếu ở một số nước như Mỹ, Nhật Bản Cty chứng khoán có cơ cấu tổ
chức rất phức tạp thì ở các nước mới có TTCK như ở Đông Âu, Trung Quốc
cơ cấu tổ chức của các Cty chứng khoán lại đơn giản hơn nhiều.
• Về cơ cấu tổ chức của Cty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của Cty chứng khoán phụ thuộc vào quy mô kinh doanh
và các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động. Mặt khác nó còn căn cứ
vào tính chất sở hữu của Cty chứng khoán.
Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một Cty chứng khoán chia
thành 2 khối chủ yếu: khối nghiệp vụ và khối phụ trợ.
- Khối nghiệp vụ: khối này thực hiện các giao dịch chứng khoán và tạo
ra phần lợi nhuận chủ yếu cho công ty. Tương ứng với các nghiệp vụ do khối
này đảm nhiệm sẽ có những phòng ban nhất định, gồm
+ Phòng môi giới
+ Phòng tự doanh
+ Phong bảo lãnh phát hành
+ Phòng quản lý danh mục đầu tư
+ Phòng tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán
+ Phòng ký quỹ
- Khối phụ trợ: khối này không trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh mà có chức năng phụ trợ cho các nghiệp vụ này. Thông thường khối
này bao gồm các phòng:
+ Phòng nghiên cứu và phát triển
+ Phòng phân tích và thông tin thị trường
Thái Thị Hương Trang 9 Lớp TTCK 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Phòng kế hoạch công ty
+ Phòng phát triển sản phẩm mới
+ Phòng công nghệ tin học
+ Phòng pháp chế
+ Phòng kế toán, thanh toán và kiểm soát nội bộ
+ Phòng ngân quỹ
+ Phòng tổng hợp hành chính nhân sự
1.1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán
Khi xuất hiện Cty chứng khoán với tư cách là tổ chức trung gian tài
chính thì Cty chứng khoán đã góp phần làm cho kênh huy động vốn trung và
dài hạn trở nên thông suốt, dễ dàng hơn, san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống
ngân hàng thương mại.
Trên TTCK, Cty chứng khoán có 3 chức năng cơ bản sau:
- Tạo cơ chế huy động vốn bằng cách làm cầu nối gặp gỡ giữa những
người có tiền nhàn rỗi với những người cần vốn.
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch
- Tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán
Xem xét tất cả các khía cạnh của Cty chứng khoán, từ đặc điểm đến chức
năng cho ta thấy được vai trò quan trọng không thể thiếu được của Cty chứng
khoán đối với sự tồn tại và phát triển của TTCK
• Vai trò đối với các tổ chức phát hành
Trên lý thuyết, khi doanh nghiệp cần huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khoán, họ có thể tự chào bán khối lượng chứng khoán đến các nhà đầu
tư. Tuy nhiên, họ khó có thể làm tốt điều này bởi một lẽ họ không có bộ máy
chuyên nghiệp. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho
họ. Mặt khác nguyên tắc trung gian của TTCK không cho phép nhà đầu tư và
nhà phát hành trực tiếp mua bán chứng khoán mà phải thông qua tổ chức
trung gian mua bán. Do vậy, các Cty chứng khoán với cơ cấu tổ chức thích
hợp, trình độ chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ thông qua hoạt động bảo lãnh
Thái Thị Hương Trang 10 Lớp TTCK 44