Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát triển hành lang kinh tế quốc lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
211
Kích thước
4.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1526

Phát triển hành lang kinh tế quốc lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

0

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

VŨ ĐÌNH HÒA

PHÁT TRIỂN HÀNH LANG KINH TẾ QUỐC LỘ 18

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Địa lý học

Mã số: 62.31.05.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS Lê Thu Hoa

HÀ NỘI, 2013

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, việc hình thành các lãnh thổ trọng

điểm giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược tổ chức không gian (TCKG)

kinh tế - xã hội. Việc hình thành và phát triển các lãnh thổ trọng điểm sẽ tạo

ra các mối liên kết kinh tế - xã hội trở thành động lực phát triển vùng thông

qua các tác động lan tỏa lôi kéo các vùng phụ cận cùng phát triển. Kinh

nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới chỉ ra rằng các nước đang ở

giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) phải

có các chiến lược TCKG hợp lý với các lãnh thổ trọng điểm thích hợp nhằm

tận dụng tối đa nguồn lực và tạo cơ sở tích lũy cho sự phát triển kinh tế.

Với mục tiêu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại, Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH,

trong đó việc lựa chọn một số địa bàn có lợi thế vượt trội để hình thành lãnh

thổ đầu tàu phát triển được coi là một khâu then chốt và là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

quốc gia. Chủ trương này đã được thể hiện rõ trong Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội quốc gia được thông qua tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt

Nam lần thứ XI (từ 12 - 19/01/2011) là “Hình thành và phát triển các hành

lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng có ý nghĩa đối với cả nước và

liên kết trong khu vực” (mục 4.6).

Việc thực hiện mục tiêu chiến lược đã đưa tới việc hình thành nhiều hình

thức tổ chức lãnh thổ (TCLT) kinh tế mới ở nước ta, trong đó hành lang kinh

tế (HLKT) được xem là một hiện tượng kinh tế - xã hội. HLKT hình thành

dựa trên việc giao lưu kinh tế sống động của một tuyến trục giao thông huyết

mạch do có sự tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ gắn với các đô thị

dọc hai bên tuyến trục đó. Việc phát triển tập trung các cơ sở kinh tế, nhờ lợi

2

dụng triệt để việc vận chuyển thuận lợi nên các hoạt động kinh tế đem lại hiệu

quả cao hơn.

Ở Việt Nam trong khoảng 10 năm qua đã có nhiều HLKT được hình

thành, trong đó tiêu biểu là các hành lang (HL): Lào Cai - Hà Nội - Hải

Phòng; Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và HL Đông - Tây

(Việt Nam). Hiệu quả của việc hình thành và phát triển HLKT ở nước ta đã

bước đầu thể hiện là một hình thức TCLT có triển vọng. Các HLKT đóng vai

trò to lớn trong việc đóng góp vào tăng trưởng giá trị sản xuất của các địa

phương đi qua; đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội; tạo ra

mối liên hệ cả theo chiều dọc và chiều ngang thúc đẩy trao đổi hàng hóa, giao

lưu kinh tế, tăng cường mối liên kết giữa các địa phương trên toàn tuyến trục

với các khu vực xung quanh; tăng cường đảm bảo anh ninh - quốc phòng của

vùng/ quốc gia.

Tuy nhiên, sự phát triển trong thời gian qua của hình thức này cũng bộc

lộ không ít hạn chế về hiệu quả liên kết giữa các trung tâm kinh tế và các tác

động phân cực đòi hỏi phải nghiên cứu hoàn thiện. Làm thế nào để phát huy

được các giá trị thực tiễn của việc tổ chức các HLKT, góp phần đắc lực vào

công cuộc phát triển kinh tế đất nước trong thời kì CNH, HĐH là một vấn đề

đáng quan tâm cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Quốc lộ 18 (QL18) là một trong những tuyến giao thông huyết mạch ở

phía Bắc Việt Nam. Với những lợi thế về vị trí địa lý, các điểm đầu mút là các

cửa vào - ra (sân bay quốc tế Nội Bài, cảng nước sâu Cái Lân, cửa khẩu quốc

tế Móng Cái) cùng sự phát triển sôi động của các trung tâm kinh tế trong vùng

kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) Bắc Bộ đã làm cho QL18 có nhiều tiềm năng

phát triển thành HLKT. Việc phát triển HLKT QL18 sẽ tạo ra những tác động

lan tỏa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của các địa

phương có HLKT đi qua và của cả VKTTĐ Bắc Bộ gắn với vùng phía Nam

3

Trung Quốc. Tuy vậy, thời gian qua sự phát triển và liên kết của các trung

tâm kinh tế dọc theo QL18 còn hạn chế; các tác động lan tỏa từ sự phát triển

do lợi ích của tuyến trục giao thông huyết mạch trong vùng chưa thực sự

tương xứng với tiềm năng và vai trò của nó. Vì vậy, việc nghiên cứu để phát

triển QL18 trở thành HLKT trở nên cấp bách.

Xuất phát từ những lí do nêu trên tác giả chọn vấn đề "Phát triển

hành lang kinh tế quốc lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục đích

Xác lập cơ sở khoa học cho việc xây dựng và phát triển HLKT ở Việt

Nam trong quá trình CNH, HĐH; vận dụng nghiên cứu HLKT QL18 nhằm

làm sáng tỏ các điều kiện và yếu tố hình thành HL cũng như các định hướng

và đề xuất giải pháp phát triển của HLKT QL18 trong tương lai.

2.2. Nhiệm vụ

 Tổng quan có chọn lọc và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực

tiễn về xây dựng và phát triển HLKT trong điều kiện đẩy mạnh CNH,

HĐH ở Việt Nam và vận dụng nghiên cứu trường hợp HLKT QL18;

 Đánh giá điều kiện hình thành và phát triển HLKT QL18 trong quá

trình CNH, HĐH đất nước;

 Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả phát triển bền

vững HLKT QL18 đến năm 2020 và 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu của luận án là HLKT QL18, trong đó tập trung

nghiên cứu cơ sở khoa học, các điều kiện hình thành và phát triển HLKT

4

QL18 trong quá trình CNH, HĐH; hệ thống các giải pháp phát triển hiệu quả

và bền vững HLKT QL18.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học, điều

kiện hình thành, định hướng và giải pháp phát triển HLKT QL18.

- Phạm vi không gian: Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, sự

phát triển theo tuyến trục không phụ thuộc vào lãnh thổ - hành chính

mà phụ thuộc vào ảnh hưởng (gồm sức hút và ảnh hưởng lan tỏa) của

chính tuyến trục. Tuy nhiên, việc thu thập, xử lý và phân tích số liệu,

đặc biệt là các số liệu định lượng trong nghiên cứu của luận án sẽ giới

hạn đến các lãnh thổ cấp huyện thỏa mãn điều kiện (i) nằm dọc theo

tuyến trục; (ii) toàn bộ hoặc phần lớn diện tích lãnh thổ thuộc phạm vi

ảnh hưởng của tuyến trục. Do các lãnh thổ cấp huyện phù hợp với đơn

vị kinh tế - hành chính nhỏ nhất ở Việt Nam, việc giới hạn phạm vi

lãnh thổ trong nghiên cứu như vậy thể hiện tính khái quát cao nhưng

vẫn bảo đảm tính khách quan đối với sự phát triển HLKT.

Như vậy, phạm vi không gian nghiên cứu HLKT QL18 được giới

hạn từ sân bay quốc tế Nội Bài tới cửa khẩu quốc tế Móng Cái cùng với

vùng ảnh hưởng giữa HL với hai bên quốc lộ (QL) (được giới hạn theo

đơn vị hành chính huyện, thị xã, thành phố) có QL18 đi qua thuộc các

tỉnh, thành phố Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh bao

gồm: Sóc Sơn (Hà Nội); Yên Phong, TP.Bắc Ninh, Quế Võ (Bắc

Ninh); TP.Chí Linh (Hải Dương); Đông Triều, TP.Uông Bí, Yên Hưng,

TP.Hạ Long, TP.Cẩm Phả, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, TP.Móng Cái

(Quảng Ninh). Luận án có chú ý so sánh với VKTTĐ Bắc Bộ và các

lãnh thổ lân cận.

5

- Phạm vi thời gian: Việc phân tích, đánh giá điều kiện hình thành và phát

triển của HLKT QL18 được thực hiện cho giai đoạn chủ yếu từ năm 2000

đến 2010; dự báo định hướng phát triển và đề xuất giải pháp thực hiện cho

giai đoạn đến năm 2020 và 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

- Phạm vi về số liệu: các số liệu được tác giả sử dụng trong nghiên cứu,

phân tích tới cấp huyện (quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh).

Trong một số trường hợp do hạn chế về thống kê, tác giả sử dụng các số

liệu ở cấp tỉnh để minh họa cho các nhận định trong luận án.

4. Những đóng góp mới của luận án

- Về mặt lý luận: Luận án đã làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về HLKT và

khẳng định HLKT là một hiện tượng khách quan, được phát triển dựa trên cơ sở

lý luận khoa học vững chắc. Luận án cũng đề xuất quy trình tiếp cận nghiên cứu

và các tiêu chí đánh giá điều kiện hình thành và phát triển các HLKT.

- Về mặt thực tiễn:

 Luận án đã phân tích, đánh giá toàn diện, khách quan và khoa

học các điều kiện dẫn đến sự hình thành và phát triển lãnh thổ

dọc QL18 thành HLKT ở phía Bắc.

 Luận án đã đề xuất định hướng phát triển HLKT QL18 và kiến

nghị những giải pháp cơ bản nhằm phát triển và phát huy vai trò

của HLKT này trong quá trình CNH, HĐH đất nước.

 Luận án cung cấp các căn cứ khoa học cho các địa phương dọc

theo QL18 để cùng phối hợp, liên kết hành động phát huy vai trò

của QL18 và các thế mạnh của địa phương trong phát triển kinh

tế - xã hội.

 Luận án cung cấp thông tin và là tài liệu tham khảo hữu ích cho

các cơ quan quản lý, các nhà hoạch định và thực thi chính sách

trong lĩnh vực tổ chức không gian kinh tế - xã hội đồng thời là tài

6

liệu tham khảo tốt cho nghiên cứu và đào tạo đại học/ sau đại học

khối ngành địa lý kinh tế - xã hội.

5. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ

lục, luận án được cấu trúc thành 4 chương chính:

Chương 1. Tổng quan các công trình và phương pháp nghiên cứu về

hành lang kinh tế

Chương 2. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển hành lang

kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Chương 3. Điều kiện hình thành và phát triển hành lang kinh tế quốc lộ 18

Chương 4. Định hướng và giải pháp phát triển hành lang kinh tế quốc

lộ 18 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

7

Chương 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH LANG KINH TẾ

1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH LANG

KINH TẾ

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới

Phát triển HLKT ở nhiều quốc gia trên thế giới được xem là một xu thế

tất yếu không chỉ trong nội bộ một vùng, một quốc gia mà đã mở rộng trên

phạm vi liên quốc gia, quốc tế. Sự hình thành và phát triển các HLKT là yêu

cầu khách quan nội tại của các quốc gia, các địa phương có tuyến giao thông

huyết mạch kết nối các cực phát triển, các điểm mút vào - ra nhằm tận dụng

những lợi thế của tuyến trục để hợp tác đẩy nhanh tốc độ phát triển, thực hiện

giảm tỷ lệ đói nghèo, tạo các điều kiện để hoà nhập vào xu thế phát triển

chung của quốc gia và quốc tế.

Hình thức tổ chức HLKT xuất hiện đầu tiên ở các nước thuộc khu vực

Bắc Mỹ và châu Âu. Nhiều nghiên cứu cho rằng, ý tưởng về HLKT được xuất

phát từ ý tưởng cải cách của Abraham Lincoln trong giai đoạn 1861 - 1876,

khi cho xây dựng các tuyến đường sắt xuyên lục địa của nước Mỹ gắn với

phát triển các thành phố, các trung tâm công nghiệp, văn hóa, chính trị dọc

theo tuyến đường. Lincoln đã xác định mối quan hệ giữa hệ thống đường sắt

xuyên lục địa và việc phát triển kinh tế tại các khu vực phụ cận có tuyến

đường sắt ngang qua.

Trong khi đó, theo nhiều học giả nghiên cứu ở châu Á, ý tưởng manh

nha về HLKT xuất phát từ con đường tơ lụa nối giữa Trung Quốc và các quốc

gia Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi. Các thương nhân trên con đường này đã

vận chuyển buôn bán hương liệu từ Trung Quốc tới các vùng và vận chuyển

8

hàng hóa từ các vùng về Trung Quốc, hình thành nên con đường buôn bán

sầm uất trong nhiều thập kỷ.

Theo tìm hiểu của tác giả, trên thế giới vấn đề HLKT thường được đề cập

trong các nghiên cứu chung về TCKG kinh tế và một số công trình nghiên cứu

cụ thể. Tổng hợp các tài liệu được công bố của các nhà khoa học và quản lý

trong lĩnh vực liên quan, tác giả đúc rút được từ một số công trình nghiên cứu về

HLKT tiêu biểu như sau:

- Chính sách phát triển vùng: trường hợp nghiên cứu tại Venezuela của

tác giả J.Friedmann (1966) [64]. Trong nghiên cứu này Friedmann đã

đưa ra những quan niệm cơ sở về HLKT. Ông cho rằng HLKT là một

khu vực hẹp dọc theo tuyến đường quan trọng kết nối giữa hai cửa "vào

- ra" của tuyến trục. HLKT là một dải đất liên tục rộng khoảng 100km,

trung tâm là một tuyến đường giao thông chính (chẳng hạn như một

tuyến đường sắt, hoặc tuyến đường ô tô), với các hệ thống cơ sở hạ

tầng phụ cận bao gồm đường dây điện, đường ống dẫn nhiên liệu, cáp

quang, đường cung cấp nước (xem hình 1.1)

Hình 1.1. Sơ đồ mô phỏng cấu trúc một hành lang kinh tế theo J.Friedmann

9

Tuy nhiên, các vấn đề lý thuyết về HLKT do J.Friedmann đưa ra mới

chỉ dừng ở mức khái quát về quan niệm và một số điều kiện hình thành

của HLKT, chưa nghiên cứu cụ thể về vai trò và đặc điểm của việc tổ

chức phát triển HLKT.

- Trong nghiên cứu Quan niệm và phân loại về trục phát triển, Geyer,

H.S (1988) [66] đã đề cập đến khái niệm trục phát triển - một khái niệm

tương đương đương với HLKT theo cách hiểu hiện nay. Theo Geyer

điều kiện tiên quyết để hình thành trục phát triển là dựa trên một tuyến

trục giao thông có sẵn, và các điểm mút "vào - ra" - các trung tâm kinh

tế của tuyến trục, tạo nên các lực hút cho sự phát triển của toàn tuyến.

Các trung tâm kinh tế trên toàn tuyến trục trải qua ba giai đoạn sơ khai,

tập trung - phát triển, bão hòa và suy thoái.

- Nghiên cứu Hướng tới một lý thuyết chung về sự phát triển HL ở Nam

Phi của các tác giả Brian Marrian, Freeman, Ziv (2001) [60]. Các tác

giả đã xác định HLKT là một khu vực lãnh thổ nhất định dọc theo một

tuyến trục giao thông nối các hạt nhân với nhau. Sự liên kết giữa các

trung tâm (hạt nhân) tạo nên động lực thúc đẩy kinh tế theo chiều lan tỏa

từ trung tâm hạt nhân ra các khu vực liền kề. Không gian của HLKT

được xác định là khu vực rộng khoảng 2 km về mỗi bên của tuyến trục

giao thông chính. Tuyến trục này phát triển kết nối các mạng lưới giao

thông trong toàn bộ khu vực. Hoạt động của HL tạo điều kiện phát triển

kinh tế, nâng cao dân trí và đời sống của cư dân vùng phụ cận. HLKT

kết nối các nút hoạt động đi qua các đô thị xung quanh một trục giao

thông chính có khả năng tiếp cận với các vùng phụ cận có mật độ dân

số cao và nguồn cung cấp nguyên liệu lớn. Nhìn chung, công trình này

đã chỉ ra được các yếu tố cần và đủ cho việc hình thành và phát triển

HLKT đó là các tuyến trục giao thông chính liên kết các điểm dân cư

10

và các khu vực kinh tế. Nghiên cứu này cũng đề cập một số nhân tố ảnh

hưởng cơ bản trong việc hình thành và phát triển của HLKT. Tuy vậy,

nghiên cứu chưa đề cập đến vai trò của các điểm “vào”, “ra” và chỉ giới

hạn mức độ tác động của HL trong khoảng 2 km từ tuyến trục trung tâm.

- Nghiên cứu của hai tác giả Campbell MM và Meades EE về Khả năng

tồn tại của HLPT giữa Bloemfontein và Welkom (2005) [61] đã đề cập

đến thuật ngữ HLPT trong nghiên cứu về HLKT. Theo Campbell và

Meades , HLPT là một tuyến trục đáp ứng được bốn yêu cầu sau đây: (1)

Hai đầu mối giao thông phải được liên kết của một trục giao thông; (2)

Các trung tâm phải phụ thuộc lẫn nhau; (3) Sự tương tác phải đòi hỏi

tiềm năng để phát triển hơn nữa; (4) Trục phải tăng trưởng về kinh tế và

nội lực.

- Nghiên cứu của Campbell, Johan Maritz, Hauptfleisch; Jordan, (2009)

[62], Tác động của HL Maputo đối với lĩnh vực dịch vụ. Các tác giả đã

đề cập đến quan niệm, vai trò của việc hình thành và phát triển HLKT

nói chung và đối với khu vực Nam Phi nói riêng, trong đó nhấn mạnh

tác động lan tỏa mạnh mẽ của sự phát triển HL Maputo tới khu vực phụ

cận thông qua việc tăng cường liên kết các trung tâm phát triển, cơ sở

hạ tầng. Thông qua các số liệu thực nghiệm định lượng, nghiên cứu

cũng chỉ ra rằng việc phát triển HLKT đã thúc đẩy tốc độ phát triển

kinh tế của các địa phương thuộc khu vực HL cao và nhanh hơn các

khu vực phụ cận ở xa phạm vi tác động của HL.

- Trong hai nghiên cứu thảo luận: Hiệu quả và các thách thức của ba

HLKT tiểu vùng sông Mê Kông, (2005) [69] và Vùng kinh tế đặc biệt và

HLKT, (2009) [70] của Masami Ishida, tác giả đã đề cập đến vai trò của

các HLKT trong phát triển kinh tế của các quốc gia ở khu vực Đông

Nam Á, đặc biệt các quốc gia thuộc khu vực tiểu vùng sông Mê Kông

11

với dự án HLKT của ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Masami

Ishida đã cho rằng phát triển HLKT tại các nước thuộc tiểu vùng sông

Mê Kông sẽ tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa ASEAN và Trung Quốc;

tạo cơ hội thuận lợi cho việc trao đổi lao động, phát triển thông thương,

du lịch giữa các quốc gia, giúp tăng cường thu nhập cải thiện đời sống

dân cư, đặc biệt là tại các vùng biên giới giữa các nước còn gặp nhiều

khó khăn.

Bên cạnh các học giả nghiên cứu trực tiếp về HLKT như đã nêu trên,

một số học giả khác khi nghiên cứu về tổ chức không gian và quy hoạch vùng

cũng đã đề cập ít nhiều đến các nội dung về lý luận cũng như thực tiễn nghiên

cứu HLKT. Có thể kể đến như sau:

- Glasson, (1978), Giới thiệu về quy hoạch vùng: khái niệm, lý thuyết

và thực hành (An introduction to regional planning: concepts, theory

and pracice) ấn bản thứ hai, London. Trong công trình này, Glasson

đã đề cập đến HLKT như là một hình thức TCLT cần được xem xét

trong quá trình lập và phát triển quy hoạch vùng.

- Chapman, Pratt, Larkam & Dickins, (2003), Quan điểm và định nghĩa

về HL: bằng chứng từ vùng trung du nước Anh (Concept and

definitions of corridors: Evidence from England's Midland's), Tạp chí

Địa lý Giao thông vận tải (Journal of Transport Geography). Các tác giả

đã đề cập đến quan niệm về HLKT và phân tích các lợi ích của việc

phát triển HLKT ở miền trung nước Anh.

- Romein, Trip & Vries, (2003), Tính phức tạp của quy hoạch cơ sở hạ

tầng: bằng chứng từ HL châu Âu Hà Lan - Phần Lan (The multi-scalar

complexity of infrastructure planning: evidence from the Dutch-

12

Flemish eurocorridor), Tạp chí Địa lý Giao thông vận tải (Journal of

Transport Geography).

- Hess & Rodrigue, (2006), Mạng lưới sản xuất toàn cầu và vai trò của

hậu cần và giao thông vận tải (Global production networks and the role

of logistics and transportation);

- Nathan Associates, (2008), Perkins, (2009), Báo cáo tóm tắt về vành

đai Maputo (Maputo corridor summary report) USAID; Chương trình

chính thức về sáng kiến phát triển không gian, Ngân hàng phát triển

Nam Phi (Offcial of the Regional Spatial Development initiative

Programe Unit of the Development Bank of South Africa). Báo cáo đã

khẳng định thành công của việc phát triển HLKT Maputo trên các

phương diện: (i) về mặt kinh tế: giảm chi phí công trong việc đầu tư

xây dựng cơ sở hạ tầng; giảm sự lãng phí tài nguyên của các vùng lãnh

thổ lân cận; giảm chi phí giao thông cho cộng đồng dân cư nghèo; thu

hút nhiều nguồn vốn đầu tư, tăng cơ hội phát triển kinh tế; tăng hiệu

suất sử dụng trục giao thông; (ii) về mặt xã hội: giảm tỉ lệ đói nghèo,

tăng cơ hội việc làm cho cộng đồng; phát triển các dịch vụ công cộng;

(iii) về tổ chức đô thị: tái cấu trúc sự phân bố đô thị; phát triển thêm

nhiều đô thị mới dọc HLKT; (iv) về mặt môi trường: giảm ô nhiễm môi

trường phát thải từ các phương tiện giao thông; hạn chế rác thải... Bên

cạnh đó, báo cáo cũng đề xuất các định hướng phát triển về cơ sở hạ

tầng, mạng lưới logicstic và cơ chế chính sách để hành lang Maputo có

thể phát triển hơn nữa trong giai đoạn tiếp theo;

- Nghiên cứu về phát triển logistics của HLKT Bắc - Nam thuộc tiểu

vùng sông Mê Kông: tóm tắt, ADB, Manila, Philippines, Ruth

Banomyong (Logistics development study of the GMS North - South

economic corridor: summary, ADB, Manila, Philippines; Ruth

Banomyong) (2008);

13

- Chuẩn hoạt động hậu cần cho phát triển HL kinh tế: Quan sát

hoạt động biên giới tiểu vùng sông Mê Kông (Benchmarking

economic corridor logistics performance: a GMS boder crossing

observation) (2008).

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các học giả trên thế giới đã

đề cập đến vấn đề phát triển HLKT và coi nó như là một hình thức TCLT

quan trọng trong TCKG kinh tế - xã hội. Về cơ bản có thể rút ra một số luận

điểm chung từ các công trình nghiên cứu này như sau:

(i) HLKT là một khu vực lãnh thổ dọc hai bên tuyến trục giao thông

huyết mạch có độ rộng khác nhau, dao động từ 2 km tới 50 km, thậm chí tới

100 km có mật độ các hoạt động kinh tế dày đặc, với các hạt nhân kinh tế tạo

nên sự thịnh vượng chung.

(ii) Điều kiện hình thành một HLKT phải đảm bảo có một tuyến trục

giao thông huyết mạch (đường sắt, đường ô tô), kết nối các cực phát triển.

(iii) HLKT có vai trò to lớn đối trên các mặt kinh tế - xã hội và môi

trường thông qua việc tăng cường liên kết giữa các lãnh thổ, giảm chi phí và

thời gian vận chuyển, tạo cơ hội việc làm, trao đổi lao động và tài nguyên,

phát triển và mở rộng các đô thị.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam

Tại Việt Nam, thời gian qua đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu

về lý thuyết và thực tiễn phát triển đối với hình thức TCLT HLKT:

Các công trình nghiên cứu về lý thuyết HLKT tiêu biểu có thể kể đến là:

- “Bàn về phát triển kinh tế - Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu sang”

(2005) và “Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội: một số vấn đề lý luận và

ứng dụng” (2006) [41, 43] do PGS.TS Ngô Doãn Vịnh chủ biên, Nxb

Chính trị Quốc gia ấn hành. Trong hai công trình này tác giả đã đề cập

tới nội dung và các hình thức cơ bản của TCKG kinh tế - xã hội, trong

đó có đề cập tới HLKT (tr 422 - 425). Theo quan niệm của tác giả

14

“HLKT là kết quả một tuyến trục giao thông gắn với sự phân bố tập

trung các hoạt động kinh tế (có sự phối hợp chặt chẽ) dọc tuyến. Nhờ sự

phát triển và phân bố như vậy đã tạo ra các yếu tố thuận lợi cho sự phát

triển toàn tuyến, làm cho các hoạt động kinh tế của tuyến trở thành đầu

tàu lôi kéo sự phát triển chung”. Đồng thời tác giả cũng đề cập đến các

yếu tố cấu thành một HLKT bao gồm tuyến giao thông huyết mạch, các

cơ sở kinh tế và các điểm dân cư, các khu vực sản xuất bổ trợ.

- Trong bài viết “Hai HL và một vành đai kinh tế: từ ý tưởng đến hiện

thực” (2006) [17] của PGS.TS Nguyễn Văn Lịch, tác giả đã nêu khái

niệm về HLKT (là một tuyến nối liền các vùng lãnh thổ của một hoặc

nhiều quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có

hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa - kinh tế nằm trên cùng

một dải theo trục giao thông thuận lợi nhất cho việc lưu thông hàng hóa

và liên kết kinh tế giữa các vùng bên trong, cũng như các vùng cận kề

với hành lang); và vành đai kinh tế (là một tuyến nối liền các vùng lãnh

thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn

nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa - kinh

tế nằm trên cùng một dải bao quanh một khu vực (thành phố, vịnh,

v.v..). Xây dựng vành đai kinh tế không những phát triển được kinh tế

của những vùng nằm trên vành đai mà còn góp phần phát triển cả

những vùng xung quanh qua việc thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát

triển kết cấu hạ tầng giao thông); Tác giả Nguyễn Văn Lịch đồng thời

phân tích, so sánh điểm giống và khác nhau giữa HLKT và vành đai

kinh tế: Điểm giống nhau cùng là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa các

vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mục đích khai thác có

hiệu quả lợi thế so sánh. Điểm khác nhau là ở chỗ HLKT là tuyến liên

kết theo trục giao thông, thường nối giữa các điểm - đầu cuối và giữa

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!