Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Họ và tên NCS: Nguyễn Cẩm Tâm
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng
Mã số: 62.31.12.01
Họ và tên cán bộ hướng dẫn khoa học:
Hướng dẫn 1: GS, TS Nguyễn Công Nghiệp
Hướng dẫn 2: TS Nguyễn Thị Thanh Hoài
2013
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Việc tạo lập và động viên các nguồn lực cho ngân sách quốc gia, tạo tiền
đề quyết định để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân và củng cố an ninh quốc phòng được xem là một trong những
nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, do đó, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế là yêu cầu mang tính cấp thiết.
Để thực hiện thành công công cuộc này, bên cạnh sự phối hợp, nỗ lực của toàn
bộ hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, cần phải triển khai đồng bộ,
quyết liệt các giải pháp, trong đó có việc phát triển dịch vụ thuế.
Dịch vụ thuế là một khái niệm đã xuất hiện khá lâu trong quản lý thuế của
các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã xuất
hiện khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến dịch vụ thuế, qua đó đã thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và quản lý thuế ở nhiều nước. Tuy
nhiên, các công trình chỉ mới nghiên cứu về dịch vụ thuế trong bối cảnh về quản
lý thuế nói chung, xem xét về dịch vụ thuế trong mối quan hệ đan xen với các
biện pháp, chức năng quản lý thuế khác, ít có công trình nghiên cứu chuyên sâu,
riêng biệt cũng như đầy đủ và toàn diện về dịch vụ thuế. Một số vấn đề quan
trọng đến nay vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ, cụ thể như: Vai trò của dịch vụ
thuế trong quản lý thuế; Tại sao phải triển dịch vụ thuế; Các tiêu chí đánh giá
chất lượng và hiệu quả dịch vụ thuế; Các mô hình phát triển dịch vụ thuế; Các
điều kiện về pháp lý cho việc phát triển dịch vụ thuế; Yêu cầu cho việc phát triển
dịch vụ thuế.
Ở nước ta dịch vụ thuế là khái niệm mới xuất hiện, nó tồn tại từ khi nền
kinh tế thực hiện mở cửa và hội nhập. Với tư cách là một trong những phương
tiện hỗ trợ thiết thực cho công tác quản lý thuế, đồng thời cũng là một loại hình
kinh doanh mới, tìm hiểu về dịch vụ thuế là được xem là vấn đề quan trọng và
cần thiết. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, hiện vấn đề này vẫn chưa được nghiên
cứu, phân tích và hệ thống hóa một cách đầy đủ và xuyên suốt. Chưa đánh giá
3
tổng thể về thực trạng cung cấp dịch vụ thuế ở nước ta, kể cả việc dịch vụ thuế
được cung cấp từ cơ quan quản lý hay dịch vụ thuế được cung cấp từ các tổ
chức, cá nhân trong xã hội cho người nộp thuế. Thực tế này đã dẫn đến việc
chưa có một hệ thống các giải pháp hữu hiệu để tạo điều kiện khuyến khích, thúc
đẩy dịch vụ thuế phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua. Đây là một hạn chế
đang đặt ra và cần khắc phục, nhất là trong điều kiện như hiện nay khi mà Việt
Nam đang ngày càng tham gia mạnh mẽ việc hợp tác kinh tế, thương mại và đầu
tư với nhiều quốc gia và vũng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới. Nhận thức
được tầm quan trọng đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển dịch vụ thuế ở
Việt nam trong giai đoạn hiện nay” để tiến hành nghiên cứu làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
Các mục đích nghiên cứu chủ yếu của Luận án là:
- Hệ thống hóa, góp phần bổ sung và hoàn thiện các vấn đề lý luận về
dịch vụ thuế.
- Đánh giá xác đáng thực trạng phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế và góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế (hay
gọi là dịch vụ thuế công) và hoạt động cung cấp dịch vụ thuế của các doanh
nghiệp ở Việt Nam (hay gọi là dịch vụ thuế tư).
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối với dịch vụ thuế công, luận án tập trung nghiên cứu dịch vụ hỗ trợ
người nộp thuế của cơ quan thuế, không nghiên cứu dịch vụ thuế cung cấp bởi
cơ quan hải quan vì hải quan là lĩnh vực đặc thù nên việc cung cấp dịch vụ thuế
của cơ quan có liên quan đến nhiều nội dung khác mà trong thời gian nghiên cứu
có hạn không cho phép tiến hành nghiên cứu. Hay nói cách khác, luận án chỉ
4
nghiên cứu trong lĩnh vực thu thuế nội địa, không nghiên cứu đối với lĩnh vực
thu thuế xuất nhập khẩu.
- Đối với dịch vụ thuế tư, luận án nghiên cứu ở các đối tượng cung cấp
dịch vụ thuế (sẽ tập trung nghiên cứu chủ yếu vào các Đại lý thuế bởi vì trong
thực tế các công ty tư vấn về tài chính, kế toán, kiểm toán, công ty tư vấn luật đã
và sẽ hoàn thành các điều kiện để trở thành các đại lý thuế).
- Về thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu tình hình cung
cấp dịch vụ thuế từ năm 2007 (gắn với việc ra đời của Luật Quản lý thuế) đến
năm 2012, một số chỉ tiêu có mở rộng đến năm 2013. Tác giả nghiên cứu đứng
trên giác độ của một nhà nghiên cứu kinh tế độc lập.
- Về không gian nghiên cứu: Luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu ở
những địa bàn kinh tế trọng điểm, nơi đóng góp chủ yếu số thu cho NSNN như:
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương,
Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương...Đồng thời, các giải
pháp được nêu ra trong Luận án nhằm phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam đến
năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học,
trong đó chủ yếu là phương pháp logic - biện chứng, phương pháp phân tích -
tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về dịch vụ thuế phục vụ cho
công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy của các trường đại học, cũng như
công tác điều hành quản lý của cơ quan thuế các cấp; Phân tích rõ vai trò và
sự cần thiết phát triển dịch vụ thuế ở nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh công
tác cải cách hiện đại hoá ngành Thuế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
như hiện nay; Nghiên cứu kinh nghiệm về việc phát triển dịch vụ thuế ở một
số quốc gia và rút ra nhận xét, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5
Phân tích, đánh giá thực trạng của dịch vụ thuế trên hai góc độ: Dịch vụ
thuế do cơ quan thuế cung cấp cho người nộp thuế với tư cách là dịch vụ hành
chính công xuất phát từ vị trí của cơ quan quản lý nhà nước đối với đối tượng
chịu sự quản lý. Dịch vụ thuế do các tổ chức, cá nhân có chức năng trong xã
hội được pháp luật thừa nhận cung cấp cho người nộp thuế. Cả hai góc độ đều
được xem xét, đánh giá qua thực tế từ năm 2007 trở lại đây. Trên cơ sở đó,
Luận án đã phân tích, đánh giá kết quả đã đạt được và những tồn tại hạn chế
cũng như tìm ra những nguyên nhân của sự tồn tại, hạn chế đó.
Luận án đã đóng góp những giải pháp nhằm phát triển dịch vụ thuế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và cả trong thời gian dài ở tương lai theo
các nội dung: xác lập vị trí pháp lý, tổ chức bộ máy/mô hình cung cấp dịch vụ
thuế công/tư, đào tạo nguồn nhân lực của cơ quan thuế cũng như nâng cao
chất lượng của dịch vụ thuế tư, ban hành quy chế giám sát, kiểm tra nhằm
đánh giá, kiểm soát chất lượng dịch vụ thuế công/tư, tăng cường quảng bá,
giới thiệu rộng rãi trong xã hội về ý nghĩa, lợi ích của việc phát triển dịch vụ
thuế tư. Các giải pháp được trình bày súc tích, ngắn gọn và dễ hiểu, bên cạnh
ý nghĩa thực tiễn, những giải pháp còn gợi mở những ý tưởng, tạo tiền đề cho
các nghiên cứu phát triển dịch vụ thuế trong tương lai xa hơn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được kết cấu thành bốn chương:
- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về phát triển dịch vụ thuế
- Chương 2: Một số vấn đề lý luận và sự cần thiết phát triển dịch vụ
thuế ở Việt Nam
- Chương 3: Thực trạng dịch vụ thuế ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2012
- Chương 4: Giải pháp phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam giai đoạn
2013 - 2020
6
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THUẾ
1.1. Các công trình nghiên cứu trước đây
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Theo khảo sát, tìm hiểu của tác giả, trên thế giới hiện nay có khá nhiều tài
liệu liên quan đến dịch vụ thuế, trong đó chủ yếu được trình bày trong mối tương
quan với các nội dung khác, ít có tài liệu độc lập, hoặc chỉ mới nghiên cứu một
trong hai nội dung chính của loại dịch vụ thuế thuế (công và tư), điển hình như:
1.1.1.1. Otake Kenichiro (2011), “Lịch sử, vai trò của kế toán công tại Nhật
Bản” (Chủ tịch Hiệp hội kế toán công Nhật Bản, tài liệu Hội thảo tháng 8/2011
tại Việt Nam): Đây là tài liệu trình bày về lịch sử ra đời và phát triển nghề kế
toán thuế công (đại lý thuế) tại Nhật Bản, nêu lên các loại hình dịch vụ do kế
toán công cung cấp cũng như đề xuất đến tổ chức và phương thức hoạt động của
Hiệp hội kế toán thuế công Nhật Bản. Qua đó đưa đến cái nhìn toàn cảnh về lịch
sử hình thành, phát triển của dịch vụ thuế tại Nhật Bản, cho thấy quy mô, vai trò
và tầm quan trọng của dịch vụ thuế. Đồng thời, nói lên ý nghĩa của Hiệp hội kế
toán thuế công, đó là nơi tập hợp những đại lý thuế và chịu trách nhiệm quản lý
việc đăng ký hành nghề của đại lý thuế (các đại lý thuế muốn hành nghề phải
đăng ký tham gia thành viên với Hiệp hội). Ngoài ra, tài liệu đề cập đến chức
năng của Hiệp hội kế toán công, mối quan hệ giữa hiệp hội và cơ quan quản lý
thuế Nhật Bản. Tài liệu này ý nghĩa với việc lựa chọn mô hình quản lý, theo dõi
hoạt động, đăng ký thành viên đại lý thuế ở nước ta. Tuy nhiên, đây chỉ là tài liệu
tổng kết thực tiễn thuần túy, chưa có cái nhìn tổng quan về dịch vụ thuế, chưa đề
cập đến dịch vụ thuế công do cơ quan thuế cung cấp [53].
1.1.1.2. Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2007, Tạp chí Thuế
quốc tế đã khảo sát thực tế tại một số quốc gia ở khu vực Nam Mỹ về “Dịch
vụ thuế đang thay đổi như thế nào” (How tax services are changing). Nội
7
dung của cuộc khảo sát là đặt ra các câu hỏi đối với những người có liên quan
đến lĩnh vực dịch vụ thuế như công chức thuế, doanh nghiệp, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ thuế… Các vấn đề chủ yếu mà công trình khảo sát này
nghiên cứu là: Các hình thức cung cấp dịch vụ thuế đã được tiến hành như thế
nào; đối tượng nộp thuế có thỏa mãn với dịch vụ đã được cung cấp không; các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế có thu nhập như thế nào; loại dịch vụ
thuế nào phát triển nhanh nhất… Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả công
trình này đã có những nhận định về sự thay đổi của dịch vụ ở khu vực này và
xu hướng thay đổi trong thời gian tới. Như vậy, đây chỉ là một công trình
nghiên cứu thực tiễn thuần túy, không tiến hành nghiên cứu có hệ thống về
dịch vụ, đặc biệt là các vấn đề lý luận về dịch vụ thuế trong quản lý thuế [51].
1.1.1.3. Công trình nghiên cứu của Amardeep Dihllon và Jan G Buovwer
về “Cải cách quản lý thuế ở các nước đang phát triển” năm 2005 (Tax
administration reform in developing nations). Công trình này chủ yếu nghiên
cứu về sự cần thiết, hiệu quả, mục tiêu và định hướng cải cách quản lý thuế ở
các nước đang phát triển. Tuy nhiên, có một phần nội dung khá quan trọng có
đề cập đến dịch vụ thuế. Theo đó, dịch vụ thuế được coi là một yếu tố quan
trọng quyết định đến hiệu quả của cải cách thuế. Tuy nhiên, do không tập
trung chuyên sâu nghiên cứu về dịch vụ thuế nên công trình này không phân
tích sâu những yếu tố cần thiết để phát triển dịch vụ thuế ở các nước đang
phát triển [49].
1.1.1.4. Công trình nghiên cứu của Glenn Jenkins, Rup Khadka (1998) về
“Cải cách thuế ở Singapore” (Tax reform in Singapore). Đây là một công
trình nghiên cứu toàn diện về cải cách thuế ở Singapore. Trong đó, vấn đề
dịch vụ thuế cũng được đề cập khá sâu sắc. Nội dung chủ yếu có liên quan
đến dịch vụ thuế là các vấn đề về Chương trình giáo dục đối tượng nộp thuế
của Singapore, Chương trình giáo dục công chúng về thuế, Chương trình tạo
điều kiện phát triển các công ty tư vấn thuế… Công trình này cung cấp những
8
kinh nghiệm hay về việc tạo chính sách phát triển dịch vụ thuế. Tuy vậy, công
trình này không nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về dịch vụ thuế [50], [52].
1.1.1.5. Cơ quan thuế và hải quan Estonia với công trình nghiên cứu có tiêu
đề “Dịch vụ khách hàng ở cơ quan thuế và hải quan Estonia” (Customer service
in Estonian tax and customs). Công trình này giới thiệu khái quát về tổ chức bộ
máy và các hình thức cung cấp dịch vụ thuế thực hiện bởi cơ quan thuế và hải
quan Estonia. Công trình này không trình bày về các dịch vụ thuế do các doanh
nghiệp thực hiện và không trình bày đầy đủ cơ sở lý luận của dịch vụ thuế [56].
1.1.1.6. Cơ quan thuế và ngân khố quốc gia Latvia có công trình mang tiêu
đề “Chiến lược quản lý thuế và thu ngân sách quốc gia gia” (Nguyên bản tiếng
Anh “State revenue service tax administration strategy”). Trong nghiên cứu này,
các tác giả đã nghiên cứu khá công phu về dịch vụ thuế với những phân tích sâu
sắc về chiến lược hướng tới đối tượng nộp thuế như là khách hàng của cơ quan
thuế; các mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan trong việc cung cấp dịch vụ thuế cho
đối tượng nộp thuế… Tuy nhiên, công trình này không nghiên cứu đầy đủ về
dịch vụ thuế do khu vực tư nhân thực hiện [56].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có Luận án Tiến sĩ, Giáo trình, công trình
nào được nghiên cứu, xuất bản một cách đầy đủ về dịch vụ thuế. Đối với cơ
quan quản lý Nhà nước về thuế - Tổng cục Thuế, chỉ có các tài liệu liên quan đến
dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế - dịch vụ thuế công. Đối với dịch vụ
thuế tư, gần như không có tài liệu về cơ sở lý luận, rất ít tài liệu về thực trạng
phát triển. Tuy nhiên có một số bài báo, công trình nghiên cứu liên quan, đề cập
đến những khía cạnh nhất định đến vấn đề này như:
1.1.2.1. “Luật hóa dịch vụ tư vấn thuế: Doanh nghiệp và cơ quan thuế
cùng có lợi” Thuế Nhà nước số 10 (80), Hà Nội của Mai Thanh. [34]. Bài viết
này phân tích những luận cứ chủ yếu phải xây dựng hành lang pháp lý cho dịch
vụ thuế ở Việt Nam cũng như đề xuất những hướng xây dựng văn bản pháp
luật về dịch vụ thuế ở Việt Nam trong thời gian trước mắt.
9
1.1.2.2. “Vai trò của dịch vụ tư vấn trong công tác quản lý thuế” Thuế
Nhà nước, số 6/2004 của Lê Xuân Trường. [32]. Bài viết này đã đề cập đến
những vấn đề lý luận về dịch vụ thuế như lựa chọn mô hình dịch vụ thuế, các
cách thức tư vấn của cơ quan thuế, những nội dung cơ bản của dịch vụ thuế,
các điều kiện để phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam. Tuy nhiên, công trình này
chỉ trình bày những giải pháp mang tính ngắn hạn để phát triển dịch vụ thuế,
chưa nghiên cứu những giải pháp trung và dài hạn phát triển dịch vụ thuế ở
Việt Nam. Đồng thời, công trình cũng chưa đề cập sâu đến khía cạnh pháp lý
cần giải quyết để phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh
hiện nay.
1.1.2.3. “Tư vấn hỗ trợ người nộp thuế - Dịch vụ cần được xã hội hóa”
Thuế Nhà nước số 6/2006 của Lê Duy Thành. [33]. Bài viết này đã nêu lên
luận cứ cần phải xã hội hoá dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế, tuy nhiên với cách
tiếp cận coi dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế là một dịch vụ công cộng, tách bạch
hẳn chức năng quản lý và giám sát của cơ quan thuế trong bối cảnh hiện nay là
chưa phù hợp, đặc biệt với trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật thuế nói
riêng và pháp luật nói chung ở Việt Nam. Mặt khác, dưới góc độ lý luận, chức
năng hỗ trợ trong một số trường hợp độc lập với chủ thể quản lý và được đảm
trách bởi lực lượng chuyên môn hoá khác. Tuy nhiên, nó không hoàn toàn tách
rời, nó gắn liền với chức chức năng quản lý của cơ quan thuế, hơn nữa, nếu
trong trường hợp các lực lượng khác thực hiện hỗ trợ người nộp thuế cũng cần
có sự giám sát, quản lý sát sao của cơ quan nhà nước có liên quan, trong đó có
cơ quan thuế.
1.1.2.4. “Phát triển dịch vụ thuế để nâng cao hiệu lực quản lý thuế và cải
thiện môi trường đầu tư” (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do TS. Lê
Xuân Trường chủ nhiệm. [29]. Đây là một trong những công trình nghiên cứu
về dịch vụ thuế khá đầy đủ ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay. Đề tài đã
nghiên cứu những vấn đề căn bản về dịch vụ thuế, trình bày về kinh nghiệm phát
triển dịch vụ thuế ở một số nước, đã đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ ở
10
nước ta cũng như trình bày những giải pháp để phát triển dịch vụ thuế tại Việt
Nam. Tuy nhiên, đề tài này tập trung chủ yếu nghiên cứu dịch vụ thuế trong mối
quan hệ với việc cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao hiệu lực quản lý thuế.
Mặt khác, nghiên cứu này đưa ra những kết luận trong bối cảnh cũ, không còn
phù hợp trong điều kiện hiện nay. Ngoài ra, với số liệu khảo sát bị hạn chế đối
với một vài tỉnh trên địa bàn lân cận Thành phố Hà Nội, công trình cũng bị hạn
chế bởi số liệu thực tế thu thập được. Bên cạnh đó, mặc dù đã đề cập hệ thống
các giải pháp phát triển dịch vụ thuế, tuy nhiên, do thực hiện trọng bối cảnh cũ
nên tính khả thi để áp dụng trong giai đoạn hiện nay là chưa cao. Một số giải
pháp chưa luận giải chi tiết và cụ thể, như các giải pháp về mô hình tổ chức cung
cấp dịch vụ thuế của cơ quan thuế, giải pháp về hoàn thiện quy trình quản lý
thuế. Ngoài ra, với số liệu thực tế về dịch vụ thuế tư, đề tài thu được rất ít, đề tài
chưa phản ánh xác thực nhất bức tranh tổng thể về thực trạng của dịch vụ thuế
công cũng như dịch vụ thuế tư ở nước ta.
1.1.2.5. “Phát triển đại lý thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay” (2010),
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính, do TS. Nguyễn Thị Thanh
Hoài chủ nhiệm. [30]. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về đại lý thuế và
vai trò của đại lý thuế. Đánh giá khái quát và cơ bản về thực trạng đại lý thuế ở
Việt Nam, qua đó phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập về chính sách và
các điều kiện phát triển đại lý thuế ở Việt Nam. Đồng thời đã đề xuất, kiến nghị
hệ thống chính sách, giải pháp phát triển đại lý thuế ở Việt Nam đến năm 2015.
Tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn đối với đại lý thuế - dịch vụ thuế tư, chưa nêu lên
toàn bộ về dịch vụ thuế. Ngoài ra, cũng như trên đã đề cập, đề tài bị giới hạn bởi
số liệu thực tế thu thập được còn hạn chế, chưa có cái nhìn toàn cảnh về thực
trạng đại lý thuế ở nước ta và điều kiện, bối cảnh nghiên cứu của đề tài không
còn phù hợp với điều kiện nghiên cứu hiện nay của Luận án.
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh nhất
định của dịch vụ thuế như:
11
- “Tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế: biện pháp thiết thực ngăn
chặn, phòng ngừa sai phạm” Thanh tra Tài chính số 21, Hà Nội, 2004 của
Hạnh Phương [35].
- “Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế – thí điểm để nhân rộng” Thuế Nhà
nước, số 1/2004 của PGS.TS Đặng Quốc Tuyến [36].
- “Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế – Nội dung quan trọng của cải cách
hành chính thuế” Thuế Nhà nước, số 12/2001 của TS. Đặng Quốc Tuyến [37].
Như vậy, mặc dù có đề cập đến các vấn đề lý luận của dịch vụ thuế,
song các công trình nêu trên vẫn chưa đề cập đến vai trò của dịch vụ thuế trong
quản lý thuế, rằng tại sao phải triển dịch vụ thuế và chưa đưa ra các tiêu chí
đánh giá chất lượng và hiệu quả dịch vụ thuế. Nội dung nghiên cứu của các
công trình nêu trên được diễn ra trong bối cảnh cũ, không còn phù hợp trong
điều kiện hiện nay. Mặt khác, dù đã đề cập đến các giải pháp để phát triển dịch
vụ thuế, tuy nhiên lại đặt trong mối quan hệ với việc cải thiện môi trường đầu
tư và nâng cao hiệu lực quản lý thuế hoặc chỉ mới nêu lên các giải pháp để
phát triển đối với đại lý thuế, không đề cập đến dịch vụ thuế công. Chỉ trình
bày những giải pháp mang tính ngắn hạn để phát triển dịch vụ thuế, chưa
nghiên cứu những giải pháp trung và dài hạn phát triển dịch vụ thuế ở Việt
Nam. Đồng thời, cũng chưa đề cập sâu đến khía cạnh pháp lý cần giải quyết để
phát triển dịch vụ thuế ở nước ta.
1.2. Khoang hở cho các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Như vậy, vai trò của dịch vụ thuế trong quản lý thuế là gì và giải pháp phát
triển dịch vụ thuế ở Việt Nam ra sao? Đây là những câu hỏi nghiên cứu và câu
hỏi quản lý cần phải có lời giải đáp.
Xuất phát từ tổng quan nghiên cứu cũng như xuất phát từ các câu hỏi quản
lý, câu hỏi nghiên cứu nêu trên, tác giả xác định hướng tiếp cận của đề tài là:
Phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam được thể hiện thông qua việc nâng cao chất
lượng, đảm bảo tính chuyên nghiệp, kịp thời và hiệu quả trong việc cung cấp
dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế; sự mở rộng quy mô các đại lý thuế với sự tham
12
gia sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng gắn với sự kiểm
soát và quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
1.2.1. Nghiên cứu sẽ tìm ra điều gì?
Nghiên cứu sẽ xác định vấn đề phát triển dịch vụ thuế cần được lựa chọn
từ cơ sở lý luận về dịch vụ thuế, các loại dịch vụ thuế, vai trò và sự cần thiết
phải phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những vấn đề
căn bản trong việc phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam hiện nay như: Lựa chọn
loại hình dịch vụ nào để phát triển? Tổ chức bộ máy của dịch vụ thuế công
được sắp xếp như thế nào? Khung pháp lý cho dịch vụ thuế tư? Nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ thuế, tiêu chí đánh giá? Hệ thống thông tin, cơ sở dữ
liệu về người nộp thuế? Hình thức của Đại lý thuế, điều kiện pháp lý và cơ chế
kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước đối với hoạt động của Đại lý thuế? Cơ
chế tuyên truyền, khuyến khích người nộp thuế sử dụng dịch vụ thuế?
1.2.2. Điều đó khác các nghiên cứu khác ở đâu?
Phát triển dịch vụ thuế trên cơ sở bám sát định hướng, quan điểm về phát
triển kinh tế - xã hội đã được Đảng, Nhà nước đề ra, từ đó xác định quan điểm,
yêu cầu, mục tiêu phát triển dịch vụ thuế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, ý
thức tuân thủ pháp luật, thu hút đầu tư là cách tiếp cận chưa được nghiên cứu
sâu, có hệ thống ở các công trình trước đây đã công bố.
1.3. Điểm yếu và điểm mạnh của nghiên cứu
1.3.1. Điểm yếu của nghiên cứu này: Đây là vấn đề rất mới ở Việt Nam,
do vậy chưa có nhiều người nghiên cứu, từ các tài liệu liên quan cho đến các
văn bản pháp quy đề cập đến nội dung này vẫn còn rất hạn chế. Do đó, ở cả
giác độ lý luận và thực tiễn, vấn đề này còn khá mới mẻ với Việt Nam, chưa có
đánh giá đầy đủ thực trạng về phát triển dịch vụ thuế ở nước ta.
1.3.2. Điểm mạnh của nghiên cứu này: Đây là cách tiếp cận mới, với
nguồn số liệu mới cập nhật và tính chính xác cao, đầy đủ được thu thập từ
nguồn đáng tin cậy, chất lượng. Mặt khác, dịch vụ thuế là một nội dung đã
được đề cập trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020,
13
mục tiêu đã rõ ràng, vấn đề còn lại là cần có sự đánh giá sâu sắc, chi tiết về
thực trạng phát triển hiện nay, từ đó đề ra những giải pháp sát thực, phù hợp.
1.4. Đóng góp mới của nghiên cứu này
Nội dung này đã được đề cập tại Mục 6, Lời mở đầu, theo đó những đóng
góp mới của đề tài này mang ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn như sau:
1.4.1. Về ý nghĩa khoa học: Thông qua việc sưu tầm, tổng hợp và phân
tích đánh giá từ các nguồn tài liệu liên quan sẽ hệ thống hoá được các vấn đề cơ
sở lý luận về dịch vụ thuế.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đã nghiên cứu, đề xuất được các giải pháp phát
triển dịch vụ thuế ở Việt Nam hiện nay (định hướng đến năm 2020) nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế, xã hội hoá dịch vụ hỗ trợ người
nộp thuế, nâng cao ý thức pháp luật của xã hội nói chung, góp phần tạo ra công
bằng trong xã hội. Cụ thể đã đưa ra được các giải pháp để phát triển dịch vụ
thuế công: Hoàn thiện khung pháp lý; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông
tin về người nộp thuế theo từng cấp quản lý; Đổi mới và nâng cao chất lượng cán
bộ làm công tác hỗ trợ người nộp thuế; Xây dựng tiêu chí đánh giá và biện pháp
kiểm soát chất lượng công tác hỗ trợ người nộp thuế của cán bộ thuế và bộ phận
hỗ trợ người nộp thuế; Tăng cường đầu tư cho công nghệ thông tin nhằm phục
vụ công tác hỗ trợ người nộp thuế; Thực hiện tốt công tác thống kê nhu cầu dịch
vụ thuế của người nộp thuế; Cần có chính sách đào tạo, đãi ngộ phù hợp đối với
cán bộ thuế làm công tác hỗ trợ người nộp thuế và các giải pháp nhằm phát triển
dịch vụ thuế tư: Hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm phát triển và quản lý hoạt động
của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế; Hoàn thiện hình thức tổ chức chuyên
cung cấp dịch vụ làm thủ tục về thuế tư (đại lý thuế); Ban hành quy chế kiểm tra,
giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các tổ chức cung cấp dịch
vụ thuế (doanh nghiệp, công ty, đại lý…); Hoàn thiện quy trình quản lý thuế,
công khai những nội dung của quy trình có liên quan đến người nộp thuế; Nâng
cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thủ tục về thuế.
14
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THUẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lý luận về dịch vụ thuế
2.1.1. Khái niệm dịch vụ
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và quá trình phân công lao động
xã hội dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều hơn chủng loại sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Trên thế giới ngày
nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần với các sản phẩm vật chất cụ thể, mà
bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ được coi là ngành
công nghiệp không khói. Xã hội càng phát triển thì các loại hình dịch vụ càng
đa dạng và phong phú.
Nếu như sản xuất hàng hóa tạo ra các vật phẩm cụ thể, có hình thái vật
chất rõ ràng với những giá trị sử dụng nhất định thì hoạt động dịch vụ cũng
thỏa mãn được yêu cầu nào đó của con người, dù nó không thể hiện dưới hình
thức hiện vật. Dịch vụ theo nghĩa hẹp không sản xuất ra vật chất, người bỏ
sức lao động cung cấp hiệu quả vô hình mà không có sản phẩm hữu hình. Tuy
nhiên, theo nghĩa rộng, thì dịch vụ bao hàm cả việc đưa lao động vào sản
phẩm vật chất, dịch vụ hoàn thành còn bao gồm cả những vật phẩm, hàng hóa
để thoả mãn nhu cầu của người trả tiền mua nó [2].
Dịch vụ nói chung trong nền kinh tế thị trường được nhà kinh tế học
Philip Kotler cho rằng: Dịch vụ là một giải pháp hay lợi ích mà một bên có
thể cung ứng cho bên kia chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển
quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền với sản phẩm vật chất [33].
Cùng với sự phát triển và đa dạng hóa nhu cầu tiêu dùng xã hội, sự phát
triển nền kinh tế trong bối cảnh phân công lao động xã hội theo hướng chuyên
môn hóa chuyên sâu, tăng cường hợp tác hóa trên phạm vi toàn cầu, cơ cấu
giữa sản xuất và dịch vụ cũng có sự thay đổi đáng kể. Theo đó, ở các nước
15
phát triển, các nước có thu nhập cao, giá trị dịch vụ thường chiếm tỷ trọng cao
trong GDP hơn nhiều so với các nước có thu nhập thấp. Ngay cả ở những
nước kém phát triển, các ngành dịch vụ cũng đóng góp không dưới 35 - 40%
GDP. Dịch vụ mang tính vô hình nhưng lại đóng vai trò quan trọng để thúc
đẩy hoạt động kinh tế. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh giúp tăng cường tính
chuyên môn hóa. Theo nhận định của nhiều nhà sản xuất hàng hóa và cung
cấp dịch vụ, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ chuyên môn là những yếu
tố đầu vào quan trọng, giúp cho doanh nghiệp cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu
quả kinh doanh. Vì vậy, chú trọng phát triển dịch vụ hỗ trợ kinh doanh sẽ có
lợi cho nền kinh tế.
Như vậy, từ sự phân tích trên, ta có khái niệm: Dịch vụ là sản phẩm
không có hình thái vật chất của tổ chức hoặc cá nhân này cung cấp cho tổ
chức hoặc cá nhân khác có thu tiền hoặc không thu tiền nhằm mang đến một
giá trị nhất định cho cả bên cung cấp và bên nhận được dịch vụ.
2.1.2. Khái niệm dịch vụ thuế
Có quan điểm cho rằng, dịch vụ thuế là dịch vụ tư vấn thuế và kê khai
thuế. Hoặc dịch vụ thuế là dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế,
theo đó, đây là loại dịch vụ công do cơ quan thuế cung cấp miễn phí để hỗ trợ
người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, bao gồm các dịch vụ giải
thích và tư vấn pháp luật, hỗ trợ việc chuẩn bị kê khai, tính thuế và xác định
nghĩa vụ thuế; qua đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
quản lý thuế.
Cũng có cách hiểu về dịch vụ thuế đang chủ yếu nghiêng về xu hướng
xem xét dịch vụ thuế như là sản phẩm được cung cấp bởi các tổ chức, cá nhân
ngoài nhà nước và chưa đề cập đến dịch vụ thuế do cơ quan thuế cung cấp.
Với quan điểm điểm này, việc xem xét dịch vụ thuế được tiếp cận thông qua
khái niệm về dịch vụ làm thủ tục về thuế và đại lý thuế - chủ thể cung cấp chủ
yếu dịch vụ làm thủ tục về thuế trong xã hội. Trên thực tế có một số khái
niệm như: