Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
NHTM Ngân hàng thương mại
TMCP Thương mại cổ phần
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHQĐ Ngân hàng Quân Đội
CIC Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng nhà nước
CBTD Cán bộ tín dụng
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng biểu Trang
Biểu đồ 1: Tổng vốn huy động 36
Biểu đồ 2: Tổng dư nợ 37
Bảng2.1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng cho vay tiêu dùng (2004 – 2006) 45
Biểu đồ 3: Tăng trưởng dư nợ và doanh số cho vay tiêu dùng (2004-2006) 45
Bảng 2.2: Tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay 46
Biểu đồ 4: Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng của NHQĐ (2004-2006) 47
Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo sản phẩm 48
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo thời gian 50
Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng có bảo đảm và không có bảo đảm 51
Bảng 2.6: Thu lãi cho vay tiêu dùng so với thu lãi cho vay khác 52
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, nhất là kể từ
khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), các ngân
hàng thương mại để tồn tại và phát triển thì phải không ngừng tự hoàn thiện
và làm mới phù hợp với quy luật phát triển chung. Mở rộng dịch vụ ngân
hàng là một trong những nội dung cơ bản trong quá trình thực hiện đề án cơ
cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng.
Ở các nước phát triển, cho vay tiêu dùng đã được phát triển từ lâu và là
một trong những hình thức chủ yếu của ngân hàng nhằm đem lại lợi nhuận, vị
thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, ở những nước kém phát
triển như Việt Nam hình thức này còn khá mới mẻ chưa được áp dụng rộng
rãi. Việc ngiên cứu, phát triển cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương
mại Việt Nam là hướng đi mới nhằm phân tán rủi ro và đem lại hiệu quả kinh
doanh nâng cao khả năng hội nhập.
Ngân hàng Quân Đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Để tồn tại
và phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần. Từ năm 2001
ngân hàng Quân Đội đã cho triển khai sản phẩm cho vay tiêu dùng và ngày
càng hoàn thiện nó trong quá trình hoạt động. Ngân hàng đã xác định hướng
đi cho mình với mục tiêu là trở thành một trong những ngân hàng thương mại
cổ phần hàng đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và giữ vị thế mạnh đối
với thị trường tiêu dùng.
Từ những lý do trên cùng với ham muốn tìm hiểu về lĩnh vực tín dùng
tiêu dùng em quyết định chọn đề tài: “Phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân
hàng thương mại cổ phần Quân Đội” là chuyên đề thực tập tốt nghiệp của
mình.
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
3
Chuyên đề gồm có ba phần chính sau:
Chương 1: Phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại
NHTMCP Quân Đội giai đoạn 2004-2006
Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Quân
Đội trong thời gian tới
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo PGS.TS
Phan Thị Thu Hà cùng các anh chị tại phòng tín dụng NHTMCP Quân Đội
chi nhánh Minh Khai đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
4
CHƯƠNG 1
PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế nói chung và đối với cộng đồng địa phương nói riêng. Có
nhiều cách tiếp cận với cách hiểu ngân hàng thương mại, ngân hàng thương
mại có thể hiểu theo những quan điểm sau:
Theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản
tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yên cầu và cho vay đối với các tổ
chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân hàng
thương mại.
Một cách tiếp cận khác của Peter S.Rose cho thấy: ngân hàng thương
mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt nam: ngân hàng thương mại
là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên
nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay,chiết khấu và làm các phương tiện
thanh toán. Quan điểm này cho thấy, hoạt động của các ngân hàng ở Việt
Nam mới chỉ bao gồm các hoạt động truyền thống, tương ứng với hoạt động
của các ngân hàng trên thế giới ở giai đoạn thứ nhất từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
18 và Việt Nam vẫn là một nước thiếu các dịch vụ ngân hàng.
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
5
Theo luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm
2007 sửa đổi bổ sung năm 2004, ngân hàng thương mại được định nghĩa là
ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hạot động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện mục tiêu
kinh tế nhà của Nhà nước. Ngân hàng thương mại gồm ngân hàng thương mại
nhà nướcvà ngân hàng thương mại cổ phần.
Như vậy, một cách chung nhất có thể thấy Ngân hàng thương mại là
một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
- Mua bán ngoại tệ: lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân
hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ. Một ngân hàng đứng ra mua
bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị
trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn
thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu
phải có trình độ chuyên môn cao.
- Nhận tiền gửi: cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các
ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những
nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của
khách hàng).
- Cho vay
• Cho vay thương mại: ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước
chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các
khách hàng (người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhắm mở rộng
sản xuất kinh doanh.
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
6
• Cho vay tiêu dùng: đây là nội dung chính được đề cập trong những
phần tiếp theo của báo cáo.
• Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn
hạn, các ngân hàng càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng
nhà máy mới. Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này cao nhưng lãi lớn.
Các ngân hàng còn đầu tư vào chứng khoán. Chứng khoán cung cấp một
nguồn thu nhập tương đối quan trọng trong việc quản lý ngân hàng cũng như
cho các cổ đông khi thu nhập từ danh mục cho vay suy giảm.
Khoản mục đầu tư chứng khoán thanh khoản tạo nên tính lỏng cho tài
sản của ngân hàng, hỗ trợ cho nguồn tiền mặt và nguồn tiền vay từ thị trường
tiền tệ khi ngân hàng phải đáp ứng các yêu cầu thanh khoản quy mô lớn. Việc
đầu tư vào chứng khoán chất lượng cao ngân hàng có thể điều chỉnh mức rủi
ro tín dụng tổng thể trong danh mục tài sản.
Hiện nay ngân hàng đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau bao
gồm các công cụ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, chứng
khoán của các cơ quan chính phủ, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn… và các công
cụ trên thị trường vốn phổ biến là trái phiếu kho bạc, trái phiếu của chính
quyền địa phương, chứng khoán được bảo lãnh bằng các khoản cho vay mua
nhà và trái phiếu công ty.
- Bảo quản vật có giá: các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các
vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng, vật
có giá và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng
phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy
chứng nhận đã được sử dụng như tiền-dùng để thanh toán các khoản nợ trong
phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích từ việc sử dụng phương
tiện thanh toán bằng giấy thay cho kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
7
thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi
tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch: hoạt động này của ngân hàng cho
phép người gửi tiền mở một tài khoản tiền gửi giao dịch và viết séc thanh toán
cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới
này được xem như một trong những bước đi quan trọng nhất trong công
nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh
toán, làm cho các giao dịch kinh doanh dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an
toàn hơn.
- Chiết khấu thương phiếu: ngay ở thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết
khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương,
những người bán các khoản nợ của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền
mặt.
- Cung cấp các dịch vụ uỷ thác: thực hiện hoạt động này tức là ngân
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh
nghiệp thương mại. theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay
quy mô vốn mà họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại:
dịch vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại
cho các doanh nghiệp.
Thông qua Phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư các khoản tiền
đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng
vai trò là người được uỷ thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã
qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản vật có giá, đầu tư có hiệu quả và
đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong
phòng uỷ thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò
Sinh Viên: Nguyễn Huy Đồng Lớp: Ngân Hàng45C
8