Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PGS.TS. NGUYÊN NHƯ PHÁT
TS. PHAN THẢO NGUYÊN
NHA XUAT BAN Bưu ĐIÊN
PHAP LUẠI
THƯƠNG MẠI DỊCH v ụ VIỆT NAM
VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUÔC TẾ « a
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
TS. PHAN THÀO NGUYÊN
NHÀ XUẤT BẢN BƯU ĐIỆNm
Hà Nội, tháng 10 - 2006
Mã số: KK 14 HM 06
LỜINÓIĐẦU
Tỉìưc/ĩìg mại dịch vụ (TMDV) có vai trồ quan trọng trong dời
sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và đang ngày càng tỏ rỗ lỉĩi
thế, thu hút sự quan tâm của Tổ chức Thương mại thế giới (World
Trade Organization - W TO ) cũng như của các nước trong đó có Việt
Nam. TMDV ỉcì ỈĨÌIÌI vực rộng lán có ỉiêìì quan đến mọi mặt, mọi lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh tác động đến tất cả các lĩnh vực của dời
sông xã hội. Ngày ỉ 5/4/ỉ 994, “Hiệp định chung vé Thương mại Dịch
vụ - GATS’’ ra đời dã dặt nền móng và khuôn khổphcíp lý quốc tê
đồng bộ đầu tiên cho TMDV, trực tiếp tác động chi phối đến tất cả
các hiệp định song phươnq và da phương trên thế giới, buộc cúc nước
thành viên phải tuân thủ.
Đôi với Việt Nam thực tế những năm qua cho thấy, khu vực dịch
vụ đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều công
ăn việc làm mới. Năm 2003, khu vực dịch vụ dã đóng góp tới ỉ lơn
40% GDP với mức tăng trưởng ngày càng cao. Hệ thống luật pháp
kinh tế đang dần được phát triển và hoàn thiện theo kinh tế thị trường
cũng như đáp ỉùìg các chuẩn mực quốc tế. Việc coi dịch vụ ỉà một
dạng hàng hoá dân đến pháp luật điểu chỉnh TMDV thiêií thống nhất,
thường tập trung vào tìCỉỉg lĩnh vực cụ thể nêu trong Bộ luật Dân sự,
Luật Thươìĩg mại, các văn bản luật chuyên ngành như Luật Hàng hả7,
Luật Bảo hiểm... Việc xây diCỉĩg dược khung pháp lý thống nhất vê
TMDV phù ỈIỢỊ? không những góp phần íạo lập hành lang pháp ỉỷ để
thúc đẩy sự phát triển của TMDV, mà còn góp phần đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tê của Việt Nam. Để góp phẩn vào việc
xây dipĩg cơ sở Ịý luận và thực tiễn cho việc xây diũiẹ, hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động TMDV, đáp íữig nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế ở ìỉước ta nói cìuing và ngành Biũỉ chính.
Viển thông, Công nghệ thông tin nói riêng; Nhà xuất bản BiCii điện
xuất bản cuốn sách “Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và hội
nhập kinh tê quốc tẻ”, do PGS.TS. Nguyễn Như Phái và TS. Phan
Thảo Nguyên biên soạn. Nội dung cuốn sách gồm 03 chương vủ phân
phụ lục, sể để cập đến nlỉữnq kiến thức cơ bản nhất vé hoàn thiện
pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và
toàn cầu hóa vé kinh tế, bao gồm: Nỉìũlĩg vấn dề lý luận vê thương
mại dịch vụ và pháp luật thương mại dịch vụ; Thực trạng pháp luật
thươỉig mại dịch vụ ở Việt Nam; Hoàn thiện pháp Ịuậí thương mại
dịch vụ ở Việt Nam đáp íniq yêu cấn hội nhập kinh í ế quốc tế.
Hy vọng, cuốn sách sẽ lủ tái ìiệu tham khảo ỉìữii ích dối với các
cán bộ lãnh dạo, các nhà quản lý, cúc doanh nghiệp, các nhà hoạch
định chính sách về thươĩĩq mại dịch vụ trong bối cánh hội nhập kinh
tể khu vực vù thế giới; đồn % thời cuốn sách là ĩài liệu học tập, nẹhiêỉỉ
cínt đối với giáo viên, sinh viên thuộc Học viện Công nghệ Bưit chính
Viễn thông và các cơsởđcio tạo chuyên ngành Biũi điện.
Ý kiến góp ỷ của quý vị YCÌ bạn đọc xin giri về địa chỉ: Nhà xuất
bản Biỉĩỉ diên, 18 NiỊiỉyển Du, Hcì Nôi - Điên thoai: 04.9430202 - « «r ' • m w
Fax: 04.943ỉ 285
Xin trân trọng cảm ơn.ỉ.
Hà Nội, tháng 10 năm 2006
NHÀ XUẤT BẨN BUU ĐIỆN
Chương 1: Những vấn đề lý luân về thương mai dịch vụ...
7
Chưong 1
NHŨNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ THƯƠNG MẠI
DỊCH VỤ VÀ PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI DỊCH v ụ
■ • • * • •
1.1. KHÁI NIỆM VÈ THƯƠNG MẠI DỊCH v ụ
1.1.1. Khái niệm về dịch vu - 9 9
Cũng giống như hàng hóa, dịch vụ ra đời và xuất hiện là sản
phấm của quá trình lao động sản xuất của con người, để phục vụ
các nhu cầu của con người. Điểm khác biệt là nếu như hàng hóa là
các “sàn phâm, vật hữu hình” mang hai thuộc tính giá trị và giá trị
sử dụng, thì dịch vụ lại là các “sàn phàm vô hình, không nhìn thấy
được (intangible, invisible producís)" nhưng cũng mang các thuộc
tính về giá trị và giá trị sử đụng(1). Do sự khác nhau về tính hiện
hiru hay không hiện hữu giữa hàng hóa và dịch vụ, đã tạo nên sự
khác biệt trong các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại mà chúng
là đối tượng. Bởi vậy, pháp luật cũng có sự điều chỉnh khác nhau
đối với các quan hệ thương mại hàng hóa (TMHH) và quan hệ
thương mại dịch vụ (TMDV).
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách
trên thế giới vẫn chưa đi đến sự thống nhất về khái niệm “dịch VỊÍ\
bởi dịch vụ được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, do sự đa
dạng về chủng loại và tính vô hình của dịch vụ. Các nhà kinh tế
học thường định nghĩa dịch vụ gắn với quá trình san xuất như ngay
(l) Ngân hùng thể %iới (IVB) (2004), “Số tay về phát triển Thương mại và
W TO ”, tr. 249, NXB Chính trị quổc gia, Hà Nội.
cả c. Mác cũng định nghĩa “Dịch vụ lò con đè của nền kình tế sàn
xuất hàng hóa khi mà kinh tế hòng hóa phái triển mạnh, đòi hỏi
một sự lưu í hông trôi chảv thông suốt liên tục để thỏa mân nhu cầu
ngày còng cao của con người thì dịch vụ phát triển ,,(2). Tiếp cận
dưới góc độ pháp lý, nhiều quan điểm xem xét dịch vụ là đối
tượng của các quan hệ xà hội mà pháp luật cần điều chỉnh trong sự
so sánh với quan hệ hàng hóa dựa trên tính hCru hình của hàng hỏa
và tính vô hình của đicli vu. Theo đó, dich vu đươc đinh ndiĩa là f « / • # • ■
“bất cứ những gì mù khi bán nó khỏỉìg thể rơi vào chân bạn
được”{}). • • w • 0 Định nghĩa về dịch vụ do T.p Hill đưa ra năm 1977, cỏ
ảnh hường khá lớn tới các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này, cùng có
cách tiếp cận tương tự. Theo Hill “dịch vụ là sự thay đồi về điều
kiện hay trạng thcìi của người hay hàng hóa thuộc sở lĩừii cùa một
chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thế kinh tế khác với
sự dòng ỷ trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”(4).
Trong cố gắng xây dựng một khuôn khồ pháp lý quốc tế
chung về TMDV, sáu tổ chức quốc tế lớn là: Liên Hiệp Quốc; ủ y
ban châu Âu; Quỹ Tiền tệ Quốc tế; Tổ chức Họp tác và Phát triền
Kinh tế và To chức Thương mại thế giới đã nghiên cứu và đưa ra
khái niộm chung về dịch vụ. Trên cơ sở thừa nhận dịch vụ bao
gồm một loạt các sản phẩm và hoạt dộng vô hình mà rất khó có thể
8 Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và... « • % -/ • I » •
(2) Đại học Kinh té Quốc dân (200Ị), “Giáo trình ngành Thươns mại Dịch vụ”
tì .9 Nxb Thong kê.
(3) United Nations - UN, WB(!994), A Hand Book “Libralizing International
Transaction in Services”, tr. / Genevo.
(4) Bộ Thương mại (2003), “Cơ sở khoa học xây dựng định hưÓTìs, mục tiêu và
lĩiải DháD nhằm đẳv manh xuất khẩu dich vu của Viêt nam "iai đoan 2001 -
Chương 1: Những vấn đề /ý luận về thương mại dịch vụ. 9
được đúc kết trong một định nghĩa đơn giản; giữa dịch vụ và hàng
hóa cũng có những điểm tương đồng nhất định và có những mối
liên hệ ở các cấp độ khác nhau. “Dịch vụ là các sản phẩm đầu ra
được sản xuất (tạo ra) theo đặt hàng và chúng không thể được
mua bán, trao đổi tcich biệt khỏi quả trình sản xuất ra (tạo ra)
chúng; Các quyền sở hữu không thế được thiết lập trên củc dịch
vụ, và VCIO thời điếm quả trình sản xuất ra (tạo ra) chúng được
hoàn thành, dịch vụ được cung cấp ngay cho khách hàng tiéu
d ù ìĩg ^ \
Nếu xét dưới góc độ kinh tế, dân sự, dịch vụ cũng có thể được
hiểu là một loại
• • o • • • # fl “hàng hóa đặc biệt”. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ
dịch vụ là “hcing hóa vô hình, không nhìn thấy được”. Nếu xét
dưới góc độ pháp lý, dịch vụ và hàng hóa đều là đối tượng trong
các quan hệ xã hội mà các bên chủ thể hướng tới. Trong các quan
hệ xã hội đó, nếu đối tượng là hàng hóa, ta có giao dịch hàng hóa
và tiến hành TMHH, nếu đối tượng là dịch vụ ta có giao dịch dịch
vụ và tiến hành TMDV. Vì vậy, các nguyên tác pháp lý cơ bản của
pháp luật dân sự, pháp luật kinh tế thương mại áp dụng cho các
quan hệ hàng hóa thì đều có thể được áp dụng cho các quan hệ
dịch vụ. Tuy nhiên, hàng hóa và dịch vụ khác nhau ở tính hữu hình
- European Union Committee - EUC - Liên hiệp châu Âu,
- International Monetary Fund - IMF - Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
- The Organization for Econimic Co-opreration and Development - OECD.
- United Nations Conference on Trade and Development - ƯNCTD,
- United Nations - UN.
- Wold Trade Organization - WTO (2002), “Manual on Statistic of International
Trade in Services”, if.2 Geneva.
10 Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và.
và không hữu hình, cho nên cách thức thể hiện các quyền - nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể trong quan hệ đối với đối tượng cua
quan hệ (hàng hóa, dịch vụ) là khác nhau, và đòi hòi có những
cách tiếp cận khác nhau trong điều chỉnh những khuôn khỏ cùa
pháp luật đối với các quan hệ hàng hóa và quan hệ dịch vụ.
Tuy chưa đạt tới định nghĩa thống nhất chung về dịch vụ,
nhưng tiru chung lại, dịch vụ là sản phẩm của quá trình lao động
sản xuất của con người. Dịch vụ tham gia vào quá trình phân phối,
lưu thông để thoa màn nhu cầu của mỗi cá nhân, tổ chức và đời
sống xã hội. Dịch vụ là đối tượrm hướng tới của nhiều nhóm quan
hệ dân sự, kinh tế thương mại với nhiều chủ thể tham gia. Nhà
nước sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh các quan hệ dịch vụ,
đảm bảo cho chúntỉ diễn ra tron
o • • • I • •
2 trật tự thích hợp. Dịch vụ có
những đặc trưng cơ bán để nhận biết như sau:
+ Đặc trưng ỉ hử nhất: Dịch vụ là các sản phẩm vô hình
Dưới giác độ pháp lý, đặc trưng này có ý nghĩa quan trọng
trong viêc xác lâp các s^iao dich dân sư và kinh tế về dich vu. Vi I I I % V • •
không tồn tại dưới dạng vật thể nên sẽ không xác lập được quyền
sở hữu trên dịch vụ. Bởi vậy, trong quan hệ mua - bán dịch vụ sẽ
không có việc chuyển giao quyền sở hừu dịch vụ từ neười bán
sang người mua như trong quan hệ mua bán hàng hóa. Chủ thề của
quan hệ dịch vụ có một số quyền khác biệt so với trong quan hệ
hàng hóa. Đó là trong quan hệ dịch vụ, chủ thể không quan tâm
đến lợi ích sở hữu dịch vụ, không định đoạt dịch vụ, mà chỉ quan
tâm đến quyền sử dụng và chất lượng dịch vụ. Nói cách khác, định
nghĩa về quyền sở hữu nêu trong pháp lưật dân sụ bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt chỉ đúng đối với các
vật, tài sản và hàng hóa hữu hình. Đây là đặc trung mà các nhà
nghiên cứu và hoạch định chính sách, luật pháp thường lưu tâm
trước khi giải quyết các vấn đề về dịch vụ. Đặc trưng này đòi hỏi
cách tiếp cận và điều chỉnh riêng của pháp luật đối với các quan hệ
dịch vụ. • »
+ Đặc trưng thứ hai: Dịch vụ có tính không đồng nhất, khó
tiêu chuẩn hóa
Dưới góc độ pháp luật dân sự, dịch vụ là một cồng việc do
một bên thực hiện để thỏa mãn nhu cầu của bên kia (Điều 518, 519
BLDS 2005). Quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động cung ứng
dịch vụ có các đặc trưng riêng biệt về các quyền và nghĩa vụ pháp
lý. Các chủ thể thỏa thuận với nhau để thực hiện một cồng việc
nào đó, ví dụ như sửa chữa nhà cửa. Bên cung ứng dịch vụ thực
hiện công việc theo thỏa thuận và nhận tiền công. Thước đo để
đánh giá chất lượng công việc phụ thuộc vào mức độ “hài lòng”
của bên yêu cầu dịch vụ và quá trình thực hiện công việc của bôn
cung ứng dịch vụ. So với các giao dịch hàng hoá, pháp luật thường
có cách điều chỉnh riêng đối với các giao dịch dịch vụ, như điều
chỉnh phương thức thế hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể,
các biện pháp chế tài liên quan để các bên thực hiện đúng cam kết,
cách thức đề xác định tiêu chuẩn, chất lượng dịch vụ. Bởi vậy, các
nội dung về tiêu chuấn hóa dịch VỊI và các biện pháp bảo vệ lợi ích
khách hàng cũng là các chế định quan trọng trong pháp luật về
TMDV. Tuy nhiên, với đặc trưng này, các quy định pháp luật về
chất lượng hàng hoá, bảo quản hàng hoá, qưv cách sản phẩm...
trong TMHH sẽ khó áp dụng cho các quan hệ TMDV.
+ Đặc trưng thử ha: Dịch vụ có tính không tách rời giữa quá
trình sản xuất và tiêu dùng. Nói cách khác, quá trình sản xuất
(cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thương mại dịch vụ...______________21
Đặc trưng này cho thấy các quan hệ cung ứng dịch vụ là quan
hệ liên tục từ khi phát sinh yêu cầu đến khi kết thúc. Xét dưới góc
độ kinh tế, tính không tách rời dược hiều là việc sản xuất, cung
úng, lưu thông, tiêu dùng dịch vụ là một quá trình liên hoàn, không
có độ trễ về mặt thời gian giữa các công đoạn. Nói cách khác đây
là một chu trình liên tục khép kín giữa sản xuất và tiêu dùng gọi là
chuỗi cung. Với đặc trưng này, dịch vụ khác hàng hóa ở chỗ khi
được sản xuất ra, hàng hóa có thề được lun kho bãi và không nhất
thiết phải tham gia ngay vào quá trình lưu thông, tiêu dùng. Sau
quá trình tiêu dùng dịch vụ, các giá trị và giá trị sử dụng của dịch
vụ được chuyền tải vào các giá trị vật chất khác, còn bản thân dịch
vụ không tồn tại.
Dưới góc độ pháp lý, đặc trưng này quyết định một loạt các
vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình dịch vụ, đó là: Quy định
thòi điểm phát sinh và kết thúc quan hệ dịch vụ giữa các chủ thể;
quy định hình thức của các giao dịch dịch vụ qua cách thức yêu
cầu và cung ứng dịch vụ; quy định các phương thức giao dịch và
kinh doanh dịch vụ. Với đặc trưng này, khi một bên có yêu cầu
dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ có trách nhiệm phải thiết lập
kênh cung cấp dịch vụ để đáp ứng các yêu cầu đó và bắt đầu quá
trình cung ứng dịch vụ, ngược lại bên khách hàng cũng phải có
hình thức tiếp nhận dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ tương xứng phù
họp với quá trình cung ứng dịch vụ của bên cung cấp. Nếu không
có kênh cung cấp và kênh tiếp nhận kết nối trực tiếp với nhau,
quan hệ cung ứng dịch vụ sẽ không được thực hiện.
+ Đặc trưn% ihứ tư: Dịch vụ không thể cất giữ và lưu kho bãi.
Đặc trưng này tạo nên sự khác biệt trong quy định cua pháp
luật về quyền đối với tài sản. Nếu như hàng hóa hữu hình, trong
12 Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và...
_________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ " • V ■ 9 • • ______________________________________
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thương mại dịch vụ
13
quá trình lưu kho bãi sẽ làm phát sinh một loạt các vấn đề liên
quan đến quyền đối với tài sản, như các quy định về lưu kho bãi,
bảo quản tài sản và bồi thường thiệt hại nếu như có mất mát, hư
hòng. Đặc biệt, quá trình lưu kho, lưu bâi của hàng hóa làm xuât
hiện thêm hàng loạt các quan hệ kinh tế trong TMHH như quan hệ
về kho vận, quan hệ về chuyển phát, bảo hiểm hàng hoá..., đồng
thời cùng làm phát sinh các quan hệ kinh doanh mới như đại lý bán
hàng đa cấp, ủy thác... Song hành cùng các mối quan hệ kinh tế,
dân sự nêu trên là cơ chế điều chỉnh thích ứng của pháp luật dân sự
và kinh tế như các chế định về bán hàng đa cấp, chế định yề đại lý
và các hình thức trung gian thương mại trong TMHH. Với đặc
trưng này, dịch vụ không phải là thứ có thể mua để tích trữ cho
việc bán lại như hàng hoá. Cho nên, các hình thức trung gian
thương mại được quy định trong LTM 2005 như đại lý, đại diện,
bán hàng đa cấp... cần có các bồ sung phù hợp mới có thể áp dụng
cho TMDV. Trong kinh doanh dịch vụ, các hình thức trung gian
thương mại vẫn còn tồn tại và sẽ tiếp tục phát triển đa dạng trong
nền kinh tế thị trường, nhưng do khác nhau ở tính hữu hình và vô
hình, nên các hình thức trung gian TMHH có thể hoạt động tương
đối độc lập so với nhà sản xuất ra hàng hoá, họ chỉ phụ thuộc vào
nguồn hàng do nhà sản xuất cung cấp. Trong khi đó, các trung gian
TMDV lại gần như phụ thuộc hoàn toàn và là một khâu trong quá
trình dịch vụ, trong nhiều trường họp, họ không thể hoạt động độc
lập được nếu tách khỏi nhà cung cấp dịch vụ.
Tóm lại, đên nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất
chung về dịch vụ, nhưng dịch vụ có thể được nhận biết qua các đặc
trưng là: Tỉnh vô hình, không xác lập được quyền sở hữu trên dịch
vụ; khó tiêu chuâtì hóa; quá trình sản xuất, cung ứng và tiêu dùng
dịch vụ diễn rci đồng thời, dịch vụ không thể cát írừ và lưu kho bãi