Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PGS. TS. NGUYỄN MINH DOAN
(Chủ biên)
PHÁP LUẬT, LÔI SỐNG
VÀ VẪN HÓA GÔNG sở
NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
HÀ NỘI-2011
TẠP THE TAC GIA:
1. TS. Bùi Thị Đào - Phần B (II, V)
2. PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan - Phần A; Phần B (I,
III, VI); Phần c
3. ThS. Nguyễn Văn Năm - Phần B (IV)
4
LỜI GIỚI THIỆU
Pháp luật là những chuẩn mực hành vi của các tổ chức
và cá nhân không thể thiếu và cùng quan trọng trong hầu
hết các lĩnh vực khác nhau của đời sông xã hội hiện nay.
Bíít kỳ một tổ chức, cá nhân nào, đặc biệt là các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, cũng cần
phải sống, làm việc có văn hóa theo tinh thần các quy định
của pháp luật để hướng tới chân - thiện - mỹ.
Với tinh thần đó, cuôn sách "P h á p luảt, lối sốn g và
vân h óa công sở' đã được biên soạn nhằm làm cho phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sông văn hóa", đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả hơn, làm cho các chuẩn mực
văn hóa pháp luật thấm sâu vào mọi mặt đời sông trong
mỗi gia đình, mỗi cộng đồng dân cư, mỗi cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp.
Nội dung cuốn sách trang bị cho bạn đọc một số kiến
thức về pháp luật, sự cần thiết phải sống, làm việc theo
5
pháp luật, lôi sống theo pháp luật và văn hóa công sở ở
nước ta trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở cửa, hội
nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Trân trọng giói thiệu cuốn sách cùng bạn đọc!
Hà Nội, tháng 8/2011
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
6
PHẦN A. PHÁP LUẬT
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
1. Quan niệm vế pháp luật, nguồn gốc và sự cần thiết
của pháp luật
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khá phức tạp, nên
có thế xem xét pháp luật ở nhiều phương diện, cấp độ khác
nhau. Trong lịch sử đã tồn tại khá nhiều quan niệm khác
nhau về pháp luật, nguồn gốc của pháp luật, cũng như sự
cần thiết của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội.
Theo quan niệm tôn giáo thì pháp luật do các lực lượng
siêu nhiên sáng tạo ra, cũng như họ đã sáng tạo ra con
người. Do vậy, pháp luật là ý muôn của Thượng đế, là ý
Chúa... Các nhà làm luật, đặc biệt là vua, chúa chỉ dựa
theo ý muôn của các đấng linh thiêng nói trên để viết ra các
điều luật cho mọi người tuân theo.
Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật sinh ra như
một lẽ tự nhiên (con người sống cần phải có những quy tắc
7
P K a p luẶt) lôi sổVig v à v ăn k ó a CÔH0 s ả
xử Sự, do vậy, pháp luật sinh ra là quá trình tất yếu, tự
nhiên), cũng như sự xuất hiện của con người, loài người
như một quá trình phát triển tất yếu tự nhiên. Từ đó, họ
cho rằng “ở đâu có xã hội, ở đó có pháp luật”. Theo quan
niệm của người xưa, cái thường tình của lòng người là hễ
có thừa thì xa xỉ, không đủ thì dồ sẻn, không ngăn cấm thì
dâm đãng, không theo tiết độ thì sai lầm, buông thả lòng
dục thì hư hỏng. Có thể nói, sự ham muôn của con người là
vô độ cho nên cần phải tiết chế những ham muốn của con
người bằng những quy tắc của đạo đức, luân lý, lễ giáo và
pháp luật... để ẩm thực phải có hạn lượng, y phục phải có
tiết chế, nhà cửa phải có pháp độ, súc tụ phải có số thường,
xe cộ và đồ dùng phải có ngữ, có hạn..., xét đến cùng là để
giữ phòng nguồn loạn vậy. Do vậy, trong pháp luật bao giờ
cũng có những quy định cấm đoán (quy định những hành
vi mà các chủ thể không được phép thực hiện). Lẽ dĩ nhiên,
pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội, có hại cho
giai cấp thông trị. Ngoài các quy định cấm, pháp luật còn
có những quy định bắt buộc (quy định vê các nghĩa vụ pháp
lý cho các chủ thể) và những quy định cho phép (cho phép
chủ thể có thể hành động theo một cách thức nhất định).
Như vậy, pháp luật là hiện tượng gắn liền vối xã hội, là
phương tiện để quản lý xã hội, duy trì trật tự xã hội. Pháp
luật là những tiêu chuẩn, quy tắc căn bản mà mọi người
phải tuân theo, được đặt ra đế điều chỉnh các hoạt động của
con người, phối hợp, thống nhất hoạt động của các tổ chức
8
P k ẩ « A P H Á P L U Â T
và cá nhân theo những mục đích nhất định, đồng thời còn
dùng để trừ khử những điều gian tà, bất chính vì công
bằng xã hội.
Một số học giả khác lại cho rằng, pháp luật đồng nghĩa
với công lý và công bằng. Theo họ, pháp luật là công lý, bao
gồm những quy định do nhà nước ban hành đại diện cho
công bằng xã hội, thể hiện sự đồng thuận của các thành
viên trong xã hội, nhằm thực hiện công lý, bảo vệ lợi ích cho
tất cả mọi thành viên trong xã hội. .
Quan diểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, pháp
luật là hiện tượng có tính lịch sử, là sán phẩm của sự phát
triển xã hội. Pháp luật không phải là ý chí của thượng đế
hay của một lực lượng siêu nhiên nào ngoài trái đất gán
ghép vào xã hội, mà nó nảy sinh trong dời sông xã hội, là
kết quả của sự biến đổi xã hội từ xã hội mông muội, thấp
kém sang xã hội văn minh, phức tạp, từ xã hội không có
giai cấp sang xã hội có giai cấp. Theo quan điểm Mác -
Lênin thì trong xã hội nguyên thuỷ chưa có pháp luật, việc
quản lý, điều chỉnh các quan hộ xã hội khi đó được dựa vào
tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo..., là những công cụ
điều chỉnh thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung của các
thành viên trong xã hội nên được mọi người thừa nhận và
tự giác tuân theo. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn
nhất định thì những công cụ như đạo đức, tập quán, tín
điều tôn giáo... không còn khả năng hoặc không thể duy trì
quản lý xã hội như cũ được nữa, vì ý chí của các thành viên
9
luẠt> lối sôV\g v à v ăn h óa c ô n g s à
trong xã hội không còn thông nhất, lợi ích của các giai cấp
trong xã hội đã có sự khác biệt căn bản, thậm chí đôi lập
với nhau. Trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong vòng
“trật tự\ đồng thòi bảo vệ được lợi ích của giai cấp mình,
giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước tạo ra một công
cụ điều chỉnh mới là pháp luật. Như vậy, pháp luật ra đòi
do nhu cầu xã hội để quản lý một xã hội đã phát triển quá
phức tạp, đã xuất hiện những giai cấp có lợi ích đôi lập với
nhau và nhu cầu giai cấp để bảo vệ lợi ích cho giai cấp
thống trị về kinh tê và chính trị trong xã hội. Một cách
khái quát thì pháp luật ra đời và tồn tại gắn liền với xã hội
có giai cấp; là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang
tính khách quan (sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội)
vừa mang tính chủ quan (phụ thuộc ý chí nhà nước của
giai cấp thông trị). Theo c. Mác và F. Ảngghen thì pháp
luật chẳng qua là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên
thành luật, mà nội dung của ý chí đó là do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp thông trị quyết định, cần chú ý
là khi nhà nưóc ra đời thì các hình thức tổ chức của con
ngưòi trước đó (thị tộc, bộ lạc) không còn tồn tại, nhưng
khi pháp luật ra đời, các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo... vẫn song
song cùng tồn tại vói nó. Quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin cho rằng, pháp luật được hình thành chủ yếu bằng
hai con đường cơ bản sau: Thứ nhất, nhà nước tuyên bô'
(thừa nhận) một sô' quy tắc xử sự đã có sẵn trong xã hội
1 0
P U án A - P H ^ P L U Â t
như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo... thành pháp luật
và dùng quyền lực nhà nước bảo đảm cho chúng được tôn
trọng, được thực hiện. Nhà nước cũng có thể thừa nhận
sức mạnh pháp lý có tính quy phạm cho các quyêt định
(cách giải quyết) những vụ việc cụ thổ của các cơ quan nhà
nước.trưốc đó thành những khuôn mẫu để giải quyết
những trường hợp tương tự; thứ hai, nhà nưốc đặt ra
những quy tắc xử sự mới buộc các tổ chức và cá nhân phải
tuân theo. Những quy tắc này thường do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyên đặt ra thông qua những trình tự, thủ
tục, hình thức nhất định.
Khoa học pháp lý hiện nay thường xem xét pháp luật ở
các cấp độ sau:
- Thứ nhất, theo nghĩa thông thường hay còn gọi là theo
nghĩa hẹp thì pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể
hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
- Thứ hai, tiếp cận pháp luật từ phương diện thực định,
họ cho rằng pháp luật gồm tất cả các quy định pháp luật
được thể hiện trong các nguồn pháp luật của quốc gia.
Chẳng hạn, pháp luật Việt Nam gểm tất cả các quy định
pháp luật được thể hiện chủ yếu trong các văn bản quy
phạm pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành.
1 1
"pKáp luật, lồi s ô'r\g v à v ăn Kóa cô n g SỎ
- Thứ ba, tiếp cận pháp luật theo nghĩa rộng, theo họ
pháp luật bao gồm tất cả các quy định pháp luật do nhà
nước ban hành, những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc
pháp luật và những vấn đề có liên quan mà chưa phải là
pháp luật thực định (Chẳng hạn, việc áp dụng pháp luật
tương tự...) được quốc gia thừa nhận và áp dụng.
Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau khi nói về
pháp luật, song tất cả các quan điểm đều thừa nhận rằng,
nói đến pháp luật thì bộ phận cốt lõi và chủ yếu, không thể
thiếu là các quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự chung).
Ngoài ra, trong pháp luật còn có những bộ phận khác
không phải là quy phạm pháp luật song những bộ phận đó
chỉ chiếm sô" lượng không lớn trong pháp luật.
Khái quát những quan niệm khác nhau về pháp luật có
thể định nghĩa pháp luật như sau: Pháp luật là hệ thống
các quy định, trong đó p h ổ biến và chủ yếu là các quy tắc
xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện,
th ể hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội uì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị,
vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội.
Về sự cần thiết của pháp luật đối với nhà nước, xã hội
và mỗi cá nhân đã được các nhà tư tưởng đê cập đến từ thời
cổ đại. Chẳng hạn, từ xa xưa phái Pháp gia ở Trung Quốc
với những ngưòi đại diện như Quản Trọng, Tử Sản, Thân
Bất Hại, Hàn Phi Tử... đã nhấn mạnh đến sự cần thiết
1 2
VUầH A P H Á P l u A t
phải cai trị (quản lý) đất nước bằng pháp luật. Phái Pháp
gia đã nhận thấy rằng, muôh nước mạnh, phải tước bớt đặc
quyền của tầng lớp quý tộc, phải để cao pháp luật. Theo họ
thì: “Pháp là cái quy tắc của thiên hạ... cho nên lấy pháp
luật mà chu phạt thì dân có chết cũng không oán, lấy pháp
lượng công thì dân nhận thưởng không có chịu ơn công
đức... cho nên các quan cai trị sai khiến dân điều gì có
pháp luật thỉ dân theo, không có pháp luật thì dân không
theo nữa. Dân lấy pháp luật mà cùng với quan chống cự
nhau, người dưới với người trên lấy pháp luật mà cùng làm
công việc. Cho kẻ dối trá không được khinh chủ mình, kẻ
ghen ghét không được dùng lòng giặc cướp của mình, kẻ
dèm pha nịnh hót không được thi hành xảo quyệt, ơ ngoài
ngàn dặm không ai dám tự tiện làm điều phi p h áp ”. ‘ Phái
Pháp gia còn nhấn mạnh rằng: “pháp luật dù không hoàn
hảo cũng còn hơn không có pháp luật, vì nó có th ể thống
nhất được lòng người".2
Theo Thương Ưởng, một người trong phái Pháp gia thì:
“Cai trị một nước có ba điều, một là pháp luật, hai là lòng
tin của dân, ba là quyền lực” và không chỉ cần phải có pháp
1 Quán Tử, trích theo Nguyễn Dăng Thục, Lịch sử triết học phương
Đông, Nxb. Thành phô' Hồ Chí Minh, 1991, Tập 2, tr.291.
2 Trích theo Lã Trân Vũ, Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb.
Sự Thật, Hà Nội 1964, tr.182.
1 3
P K ó p luột/ tói sổV»0 v à VÕKV h ó a c ổ n g St5
luật mà pháp luật phải được ban hành rõ ràng, dễ hiểu để
“kẻ ngu, người giỏi đều có th ể hiểu được" mà thực hiện.
Hàn Phi Tử lại chủ trương dùng pháp luật làm công cụ
trị nước, đồng thời phải có uy quyền và thủ pháp cai trị để
bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ và thi hành đúng.
Theo Hàn Phi Tử thì: Thế và thuật là những điều kiện
thiết yếu để bảo đảm cho pháp luật có hiệu lực (Pháp - Thê
- Thuật). Hàn Phi cho rằng, con ngưòi vốn ác nên phải
trừng phạt nghiêm khắc, phải cai trị họ bằng pháp luật với
những hình phạt nghiêm khắc. Pháp luật là hiện thân của
sức mạnh, là bạo lực để cai trị, chỉ có hình phạt nghiêm
khắc mới thiết lập được trật tự xã hội. Pháp luật phải là cơ
sở cho việc điểu hành nhà nưốc, pháp luật đốì với mọi người
đều như nhau. Ông viết: “Pháp luật không hùa theo người
sang, sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã
thi hành pháp luật thì kẻ khôn củng không th ể từ, kẻ dũng
củng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ
đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu. Cho
nên điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được
cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai,
thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật".'
Không chỉ ở phương Đông mà các nhà tư tưởng phương
Tây cũng luôn chú ý tới sự cần thiết phải có pháp luật, cai trị,
1 Xem: "Hàn Phi Tử của Hàn Phi", Người dịch Phan Ngọc, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 2001, tr.61-62.
1 4
P U á n A . P H Á P L I A Ặ T
quản lý xã hội bằng pháp luật. Chẳng hạn, Sô Lông thì chủ
trương tổ chức xã hội trên cơ sở pháp luật, xây dựng xã hội
dân chủ. Nhà triết học và toán học Pitago cho rằng, nhà nước
phải được tổ chức và tồn tại trên cơ sở những đạo luật công
bằng. Pháp luật là đại lượng bình đẳng, là mẫu số chung của
các hàm sô' khác nhau, là Gơ sở để điều chỉnh tất cả. Có như
vậy, xã hội mói có trật tự và ổn định. Bổn phận của con người
là tôn trọng thượng đế, cha mẹ và pháp luật. Nhà triết học
Democrit cho rằng, nhà nước và pháp luật xuất hiện như một
quá trình tất yếu, tự nhiên. Công bằng trong chính trị, pháp
luật, đạo đức là đặc trưng của sáng tạo tự nhiên hợp quy luật.
Nhà nước phải cai trị bằng luật pháp và mọi người phải tuân
thủ pháp luật. Nhà triết học Sôcrat thì chủ trương phân chia
pháp luật thành pháp luật tự nhiên và pháp luật thực định và
chúng đều giông nhau đó là lý trí. Luật và lẽ công bằng là một,
những người nắm quyền cai trị phải là những người có trí tuệ,
thông hiểu đòi sống và không nhất thiết phải là quý tộc.
Nhà triết học Platôn khẳng định: Sự cai trị phải gắn
liền với luật pháp và luật pháp phải công bằng. Pháp luật
công bằng là những quyết định của trí tuệ được thiết lập vì
lợi ích chung của nhà nước chứ không phải của một nhóm
nhỏ nào trong xã hội. Thể chê xấu nhất là bạo chúa, ở đó
không có pháp luật, chỉ có bạo lực và sự lộng quyền.1
1 Mokitreva.K.A (1971), Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới,
Bản dịch của Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1993.
15
P K óp luột/ lôi sông v à VÕK\ Kóa côr»g SỞ
Xuất phát từ những tư tưởng, quan điểm của các nhà
tư tưởng cổ đại về sự thống trị của pháp luật trong đời sống
nhà nước và xã hội; những ý tưởng về một nhà nước tôn
trọng và thực hiện pháp luật; về các nguyên tắc, hình thức,
cơ cấu đê thiết lập quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động
qua lại giữa pháp luật với quyền lực chính trị; các cách
chông lại sự chuyên quyển, lộng quyền của nhà nước, của
các cá nhân cầm quyền; quan điểm về việc thực hiện sự
quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật, bảo đảm sự
công bằng, bình đẳng trong đời sông chính trị - xã hội...
Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, các tư tưởng về nhà nước
pháp quyền đã có sự phát triển mạnh mẽ và hình thành
học thuyết nhà nưốc pháp quyền với những quan điểm cơ
bản là: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân
dân là gốc của quyền lực; các quan hệ xã hội căn bản phải
được điều chỉnh bằng pháp luật, mọi người đều phải tuân
theo không có ngoại lệ; pháp luật phải có vai trò chủ đạo
trong điều chỉnh các quan hộ xã hội, trong đó tính tối cao
thuộc về hiến pháp và luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện
trên thực tế các quyền, tự do cơ bản của công dân; có sự
phân công, kiểm soát và chê ước lẫn nhau giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp; bảo đảm chế độ trách nhiệm qua lại giữa
nhà nước và công dân; bảo đảm sự độc lập của toà án... Các
quan điểm về nhà nước pháp quyền đều đề cập đến mối
quan hệ giữa nhà nước với pháp luật và với công dân trên
16
P M * A P H Á P L U A t
tinh thần: Nhà nước phải đề cao chủ quyền nhân dân, phải
tôn trọng, bảo vệ các quyền, tự do của con người và bảo
đảm thực hiện các quyền, tự do đó, đồng thời nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước công dân và ngược lại; pháp luật
phải có tính tối thượng, là công cụ quản lý xã hội mang tính
tối cao, việc quản lý nhà nước và xã hội trưóc hết và quan
trọng nhất là bằng pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân đặc
biệt là nhà nước, các cơ quan nhà nước đều phải tôn trọng
và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật; pháp luật phải luôn
phù hợp với quy luật khách quan, có tác dụng thúc đẩy xã
hội phát triển vì hạnh phúc của con người...
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự tồn tại của pháp luật
cũng là tất yếu khách quan bởi những lý do cơ bản sau: thứ
nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa được thoát thai từ chính xã
hội cũ, do đó về mọi phương diện như kinh tế, đạo đức và
tinh thần... vẫn còn mang dấu vết của xã hội cũ mà từ đó
nó đã sinh ra nên vẫn cần pháp luật để hạn chế, loại bỏ
những hình thức kinh tế tư hữu, tác động làm xuất hiện và
phát triển những hình thức kinh tế mới, chuyển đổi, cải tạo
xã hội cũ, xây dựng phát triển xã hội mới tốt đẹp hơn...; thứ
hai, xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội có giai cấp nên
vẫn cần phải được quản lý bằng pháp luật, cần phải dùng
pháp luật để giữ gìn trật tự xã hội, giải quyết những xung
đột, tranh chấp trong xã hội... Như vậy, về mặt vật chất,
pháp luật vẫn còn tồn tại với tư cách là yếu tô" điều tiết
(quyêt định) việc phân phối sản phẩm và định mức lao
17