Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và
cơ chế thực thi tại Việt Nam
Nguyễn Ngọc Sơn
Chuyên ngành: Luật - Tư pháp
Mã số: 62.38.50.01
2011
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Khi cạnh tranh trong thương mại trở thành vấn đề toàn cầu thì pháp luật điều tiết
cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì thế, các chế định về
phòng vệ thương mại đã trở thành nội dung quan trọng trong khuôn khổ pháp luật về
thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong đó, chế định pháp
luật về chống bán phá giá luôn có vị trí quan trọng và được các nước áp dụng khá phổ
biến để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ hàng hóa
nhập khẩu bán phá giá. Tại Việt Nam, pháp luật về chống bán phá giá đã có những
bước phát triển nhất định với việc ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Lần đầu tiên các quy định về bán phá giá và
chống bán phá giá được ghi nhận trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là
Pháp lệnh.
Tuy nhiên, do vấn đề chống bán phá giá còn mới trong khoa học pháp lý và việc
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, việc tiếp nhận pháp luật của WTO vào pháp
luật nội địa còn nhiều hạn chế nên các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá
còn nhiều điểm chưa hợp lý, các quy định còn đơn giản và mang tính nguyên tắc,
nhiều nội dung quan trọng chưa được quy định hoặc chưa được giải quyết triệt để. Sự
đơn giản và thiếu hoàn chỉnh của pháp luật là một trong những nguyên nhân lớn làm
giảm khả năng thực thi của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Từ khi
được ban hành cho đến nay, Pháp lệnh chống bán phá giá chưa được áp dụng trong
thực tiễn. Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban chấp hành
trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số chủ trương, chính sách lớn để nền
kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới có nhận định một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam là nước ta
phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp
và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các
sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên
thị trường trong nước [2, tr 1]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp
lý cần thiết và phụ hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO nhằm bảo vệ sản phẩm,
doanh nghiệp Việt Nam ngay trên thị trường trong nước trước những hành vi cạnh
2
tranh không công bằng của doanh nghiệp nước ngoài là một trong những nội dung
quan trọng đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO vào năm 2007. Yêu cầu
về sự tương thích giữa pháp luật nội địa và các chuẩn mực pháp lý của WTO là một
trong những đòi hỏi buộc chúng ta phải cam kết và triệt để tuân thủ. Hiệp định chống
bán phá giá của WTO năm 1994 (ADA) đã quy định những căn cứ xác định hiện
tượng bán phá giá, xác định thiệt hại vật chất và đặt ra những nguyên tắc cho việc điều
tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá. Các quy định này đã và đang trở thành chuẩn
mực chung cho pháp luật của các quốc gia thành viên. Các quốc gia có quyền xây
dựng quy trình điều tra, xử lý vụ việc và xây dựng bộ máy thực thi pháp luật dựa trên
những nguyên tắc đã được ghi nhận trong ADA. Hiện nay, các vấn đề pháp lý về
chống bán phá giá đang được các quốc gia thành viên WTO đề xuất sửa đổi và hoàn
thiện trong các vòng đàm phán Doha. Dù kết quả đàm phán chưa đạt được sự thống
nhất cần thiết để sửa đổi pháp luật song cũng cho thấy khả năng phát triển của lĩnh vực
pháp luật này. Việc nghiên cứu và tiếp thu pháp luật của WTO vào pháp luật Việt Nam
và định hướng cho sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này trong tương lai là cần thiết
không chỉ nhằm bảo đảm sự tương thích mà còn đảm bảo khả năng thực thi của pháp
luật trên thực tế.
Nghiên cứu về bản chất pháp lý của hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và
chống bán phá giá tại Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn
do chúng ta tiếp cận lĩnh vực pháp luật này trong bối cảnh đặc biệt. Các quy định trong
Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 được xây
dựng từ kết quả tiếp thu một cách đơn giản và chưa đầy đủ pháp luật WTO cũng như
pháp luật các nước nên các vấn đề lý luận về vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ trong khoa
học pháp lý.
Từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” làm đề tài luận án. Việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn pháp luật chống bán phá giá
không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích chính của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý
luận để làm rõ bản chất pháp lý và kinh tế của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu; nghiên
cứu các quy định của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
nhằm đưa ra những đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn về thực trạng pháp luật;
3
luận án phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật nhằm lý giải về
tình trạng pháp luật đã không được áp dụng trong thời gian có hiệu lực vừa qua và dự
báo những khó khăn cần giải quyết khi tổ chức thực thi pháp luật. Thông qua luận án,
tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện một bước lý luận, các quy định của pháp luật
và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực áp dụng pháp luật chống bán phá
già hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Theo đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu các cơ sở kinh tế - pháp lý về bán phá giá, phân tích bản chất của
hiện tượng bán phá giá và tác động nhiều mặt của nó đến sự phát triển thị trường của
quốc gia nhập khẩu, đồng thời nghiên cứu về nhu cầu điều chỉnh của pháp luật chống
bán phá giá tại Việt Nam.
2. Trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng pháp luật chống bán phá giá bao gồm các
quy định về căn cứ xác định bán phá giá, xác định thiệt hại đáng kể và quan hệ nhân
quả; các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc và áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá, luận án sẽ nêu lên những nội dung chưa được pháp luật giải quyết hoặc
giải quyết chưa triệt để cũng như các nội dung chưa phù hợp với pháp luật WTO để
đưa ra các giải pháp khắc phục.
3. Nghiên cứu bộ máy thực thi pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. Trên
cơ sở phân tích và đối chiếu với định hướng hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay,
luận án có những phân tích về đặc trưng và những bất cập của hệ thống cơ quan chống
bán phá giá hiện nay để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống bán phá
giá và cơ chế thực thi tại Việt Nam và các kiến nghị nhằm nâng cao nâng lực áp dụng
pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở kinh tế- pháp lý về bán phá giá, thực
trạng pháp luật và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn có ảnh hưởng đến khả năng áp
dụng pháp luật chống bán phá giá nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và các quy định của
pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Luận án giới hạn nghiên cứu việc ứng dụng các nguyên lý kinh tế vào khoa học
pháp lý để xác định bản chất pháp lý của hiện tượng bán phá giá, theo đó đặt ra giới
hạn điều chỉnh của pháp luật, nghiên cứu thực trạng pháp luật chống bán phá giá tại
Việt Nam trên cơ sở so sánh với các quy định tương ứng của ADA và pháp luật của
một số quốc gia tiên phong trong lĩnh vực pháp luật này là Canađa, EU và Hoa Kỳ. Do
pháp luật chống bán phá giá Việt Nam chưa được áp dụng trên thực tế nên luận án
không có điều kiện nghiên cứu thực tiễn xử lý vụ việc mà chỉ tập trung phân tích các
4
vấn đề đặt ra từ thực tiễn có ảnh hưởng đến năng lực áp dụng pháp luật và đưa ra các
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường khả năng thi hành của pháp luật
trên thực tế.
Về cơ chế thực thi pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam, do giới hạn về
dung lượng của Luận án nên tác giả chỉ tập trung phân tích hệ thống và mối quan hệ
về thẩm quyền giữa các cơ quan điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá theo pháp
luật hiện hành. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đánh giá về tính hợp lý, hiệu quả
và đề xuất phương hướng hoàn thiện bộ máy thực thi pháp luật.
4. Tình hình nghiên cứu
Bán phá giá và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là đề tài đã được một số
nhà khoa học nghiên cứu. Đã có một số sách và một số đề tài chuyên khảo về vấn đề
này, như “Bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu” của tác giả
Đoàn Văn Trường do Nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 1998; Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ của Vụ chính sách đa biên – Bộ thương mại “ cơ sở khoa học áp dụng
thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế” được nghiệm thu năm 2000; đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do
VCAD chủ trì “ Các giải pháp ứng phó của Việt Nam đối với việc chống bán phá giá
trong thương mại quốc tế” đã được nghiệm thu năm 2005. Ngoài ra, trong quá trình
soạn thảo Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ thương mại tổ chức nhiều cuộc hội thảo về
vấn đề này, như cuộc hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU vào
cuối năm 2003; hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế thế giới do Quỹ xây dựng năng lực quản lý quốc gia có hiệu
quả Việt Nam- Australia năm 2005; Hội thảo về Pháp luật và thực tiễn chống bán phá
giá tại Liên minh Châu Âu do Nhà pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh vào năm 2004….
Bên cạnh các sách chuyên khảo và các đề tài khoa học, còn có một số bài viết
của các nhà luật học cũng như kinh tế về phá giá trong thương mại quốc tế như: Tác
giả Lê Xuân Trường Trường và Nguyễn Đình Chiến với bài viết “Để áp dụng thành
công thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Tài chính
số 4 năm 2003; “Bàn về chống phá giá trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Đoàn
Văn Trường đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 227 tháng 4 năm 1997; “Góp ý
dự thảo Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam” của Vũ
Thái Hà đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2003; “Bán phá giá trong
thương mại quốc tế và thực tiễn Việt Nam của tác giả Nguyễn Quốc Thịnh, “Cam kết
5
theo pháp lệnh chống bán phá giá của EU” đăng trên Tạp chí Cộng sản số 9 năm 2004;
“Các vụ kiện chống bán phá giá – một chẳng đường nhìn lại”; “Các vụ kiện chống bán
phá giá- những đặc điểm cần lưu ý đối với các DN Việt Nam” của tác giả Đinh Thị
Mỹ Loan trên Tạp chí Thương mại các số 44/2005, số 1+2/2006 và Tạp chí Cộng sản
điện tử 2006.
Ngoài ra, vấn đề bán phá giá cũng được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu về cạnh tranh như : “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
hiện nay” của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật do PGS. Nguyễn Như Phát và
PGS. Trần Đình Hảo chủ biên do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2001;
“Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường” của PGS Nguyễn Như Phát và Thạc sỹ Bùi
Nguyên Khánh do Nhà xuất bản Công an Nhân dân xuất bản năm 2001. Về đề tài cao
học luật, có hai đề tài nghiên cứu về vấn đề này là: 1) “Pháp luật về chống bán phá giá
trong ngoại thương một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Niêm
đã bảo vệ thành công năm 2003 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; và
2) “Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của NCS thực hiện năn 2004.
Vấn đề pháp luật chống bán phá giá của WTO và của các nước còn được nghiên
cứu tương đối sâu và toàn diện trong các tác phẩm của các tác giả nước ngoài như:
Policy makers dumping on trade của Casey J.Lartigue Jr được công bố năm 2002 tại
cato Institutes, Washington D.C; Trade remedies and WTO disputes settlement:why
are so few challenged của Chad P.Bown được công bố năm 2004; The politics behind
the Application of antidumping Laws to nonmarket economies: Distrust and informal
constraints của Cythia Horne được công bố năm 2001; Legal and economic interfaces
between antidumping and competition policy của Joses Tavares de Araujo Jr được
công bố năm 2001; Antidumping: how it works and who gets hurt của J Michael
Finger được công bố năm 1993, Cải cách hiệp định chống bán phá giá: con đường cho
các đàm phán WTO của các tác giả Lindsey Brink và Dan Ikensoon đăng trên tạp chí
phân tích chính sách thương mại của Viện Casto số 21 năm 2002; Luật chống bán phá
giá mới trong quá trình đàm phán của M. Koulen được công bố năm 1995; Hệ thống
thương mại thế giới của John H.Jackson được dịch sang tiếng Việt do Nhà xuất bản
Thanh niên xuất bản năm 2001….
Các công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã tiếp cận vấn đề pháp luật chống
bán phá giá ở nhiều góc độ khác nhau và là những tài liệu quí báu cho chúng tôi trong
6
quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, đề tài mà chúng tôi lựa chọn chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về bán phá giá và chống bán
phá giá. Cho đến nay, vấn đề chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam nói
chung và pháp luật về vấn đề này nói riêng là mảng đề tài chưa được nghiên cứu ở bậc
nghiên cứu sinh tại Việt Nam.
Đề tài mà tác giả nghiên cứu là sự phát triển một bước của luận văn cao học của
mình. Ở luận văn cao học tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của
pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá. Luận án được nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện cơ sở kinh tế và pháp lý để xác định bản chất của hiện tượng bán
phá giá; nghiên cứu tổng thể và sâu về các chế định cụ thể trong pháp luật chống bán
phá giá làm cơ sở đánh giá về sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật
WTO, đánh giá khả năng áp dụng của pháp luật trong thực tiễn và đưa ra những đề
xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về Nhà
nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế. Nội dung của luận án được nêu và phân tích dựa trên cơ sở các văn
bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các tài liệu
pháp lý.
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: tổng hợp, phân
tích, so sánh, đối chiếu lịch sử….
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: đây là luận án nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về
pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Các kiến nghị, kết
luận nêu ra trong luận án là những luận cứ khoa học của tác giả. Có thể nói đây là
công trình khoa học được nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống và đề cập đến
nhiều vấn đề về pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam mà từ trước đến nay chưa
được giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để. Đó là vấn đề về quá trình nhận thức về
bán phá giá trong khoa học pháp lý của Việt Nam, cơ sở kinh tế - pháp lý cho việc xác
định bản chất của hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu, những thành tựu và tồn
tại trong pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam….
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo hữu ích trong việc nghiên cứu về lý luận và pháp luật chống bán phá giá, làm tài
7
liệu giảng dạy và học tập cho sinh viên đại học chuyên ngành luật học hoặc kinh tế đối
ngoại.
Về thực tiễn: những nghiên cứu, kết luận, đề xuất của luận án còn có ý nghĩa
trong việc hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
7. Cơ cấu của luận án
Cơ cấu của luận án được quyết định bởi mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên
cứu. Luận án bao gồm các phần sau:
- Lời nói đầu
- Phần nội dung gồm bốn chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và pháp
luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu tại Việt Nam.
Chương 2: Các căn cứ xác định hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, xác định thiệt
hại thực tế của ngành sản xuất trong nước theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thủ tục điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá theo Pháp luật Việt
Nam.
Chương 4: Các cơ quan thực thi pháp luật và một số đề xuất hoàn thiện pháp
luật chống bán phá giá tại Việt Nam.
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.
8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA
NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP
KHẨU TẠI VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VỀ BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.1.1. Các quan niệm về bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bán phá giá, dưới góc độ học thuật, bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu được hiểu ngắn gọn là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp
hơn giá bán tại thị trường nội địa. Ví dụ Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng bán
phá giá (dumping) được hiểu là việc bán một hàng hoá ở nước ngoài với mức giá
thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước [57, tr 282]; Theo Từ điển chính
sách thương mại: phá giá được hiểu là thực tiễn bán hàng của một công ty với giá
bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước (giá nội địa của
nước xuất khẩu) [35, tr 82]; cuốn Black’s Law dictionary định nghĩa phá giá là
hành vi bán hàng hoá ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa
[93, tr 518]. Theo cách hiểu này, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là sự phân biệt
giá của cùng loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu và tiêu thụ trên
thị trường nước nhập khẩu. Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính
toán được giá xuất khẩu và giá bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa (còn gọi
là giá nội địa).
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được ghi
nhận trong đạo luật thuế hải quan Canađa được thông qua ngày 10 tháng 8 năm
1904. Sau đó, New Zealand và Úc cũng ban hành các văn bản pháp luật về chống
bán phá giá vào năm 1905 và 1906. Khi chống bán phá giá đã trở thành một nội
dung quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế thì khái niệm bán phá giá cũng
được ghi nhận tại Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1947
(gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO)1
. Điều 2.1 của ADA quy định: trong phạm vi
Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông
thương mại của một nước khác với giá thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm
đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một
1
Còn gọi là Hiệp định chống bán phá giá của WTO (viết tắt là ADA). Điều 2.1 của ADA lặp lại khái niệm bán
phá giá được quy định trong điều VI của GATT 1947. Điều VI.1 của GATT 1947 quy định “các thành viên ký
kết của GATT thừa nhận rằng bán phá giá, nghĩa là các sản phẩm của một quốc gia đưa vào giao lưu thương
mại tại một quốc gia khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của các sản phẩm đó…”.
9
nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu
dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Về cơ bản,
khái niệm pháp lý giống với các khái niệm học thuật khi cho rằng bán phá giá là
hiện tượng phân biệt giá song căn cứ để xác định không còn là giá bán của hàng
hóa trên thị trường xuất khẩu và trên thị trường nhập khẩu mà là giá xuất khẩu (giá
bán vào thị trường nhập khẩu) và giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu. Giá
trị thông thường không phải là giá nội địa của hàng hóa bị điều tra mà là giá có thể
so sánh được của hàng hóa tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu. Giá thông
thường được hiểu là “mức giá chuẩn” mà các DN áp dụng cho các giao dịch mua
bán trên thị trường nước xuất khẩu. Để có thể xác định được “mức giá chuẩn” trong
mọi tình huống, các nhà làm luật đã đặt ra nhiều tiêu chuẩn và phương pháp tính
toán phức tạp và mềm dẻo. Những thay đổi trong khái niệm pháp lý về bán phá giá
đã giải quyết được trường hợp không thể xác định được giá bán trên thị trường nội
địa của hàng hóa bị điều tra do chúng được sản xuất chỉ để xuất khẩu hoặc giá bán
hàng hóa trên thị trường nội địa không bình thường do thấp hơn chi phí sản xuất
hoặc là giá bán độc quyền…..
Kết quả so sánh hai chỉ số giá trên chưa phản ánh ưu thế cạnh tranh của hàng
hóa nhập khẩu so với hàng hóa nội địa của nước nhập khẩu mà chỉ cho thấy hiện
tượng phân biệt giá của sản phẩm nhập khẩu. Muốn xác định ưu thế cạnh tranh về
giá của hàng hóa nhập khẩu, cần tiến hành so sánh giữa giá xuất khẩu của hàng hóa
nhập khẩu và giá bán của hàng hóa cạnh tranh nội địa. Kết quả so sánh có thể là
2
:
Thứ nhất, giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu vào thấp hơn giá thông
thường trên thị trường xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn giá của sản phẩm cạnh tranh
nội địa. Trong tình huống này, hiện tượng bán phá giá vẫn tồn tại song hàng hóa
nội địa đang có lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng hóa nhập khẩu. Do đó, việc
hàng hóa nhập khẩu bán phá giá không thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho ngành sản xuất trong nước.
Thứ hai, giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán của sản
phẩm cạnh tranh nội địa nên có lợi thế cạnh tranh về giá. Khi đó, các DN nội địa
sản xuất sản phẩm cạnh tranh bị đẩy vào tình trạng hoặc phải hạ giá bán để giữ
khách hàng hoặc mất thị phần với giá bán hiện tại. Trong tình huống này, có hai giả
định được đặt ra:
2
Các tình huống này được đặt ra trong điều kiện hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa cạnh tranh nội địa chỉ cạnh
tranh về giá, các điều kiện cạnh tranh khác là giống nhau và không thay đổi.
10
- Giả định hàng hóa nhập khẩu không bán phá giá (giá xuất khẩu không thấp
hơn giá thông thường). Giá của hàng hóa nhập khẩu có lợi thế cạnh tranh do chi phí
sản xuất thấp hơn của sản phẩm nội địa. Thị trường nhập khẩu đang được hưởng lợi
từ hàng hóa nhập khẩu vì người tiêu dùng có cơ hội mua hàng hóa giá rẻ.
- Giả định có hiện tượng bán phá giá (giá xuất khẩu thấp hơn giá thông
thường) thì hiện tượng bán phá giá đang tạo lợi thế cạnh tranh một cách không
công bằng cho hàng hóa nhập khẩu trước hàng hóa nội địa. Các biện pháp chống
bán phá giá cần được áp dụng để bảo vệ ngành sản xuất nội địa trước thiệt hại do
bán phá giá gây ra.
Như vậy, hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu không đương nhiên đưa
đến kết quả là hàng hóa nhập khẩu có lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm cạnh tranh
nội địa. Ngược lại, khi hàng hóa nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh về giá so với sản
phẩm nội địa, không nên vội vàng kết luận có hiện tượng bán phá giá. Vấn đề được
đặt ra là cần có cơ chế để phân biệt hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với
việc hàng hóa nhập khẩu được bán với giá rẻ do có lợi thế cạnh tranh lành mạnh;
cần phân biệt bán phá giá có khả năng hay không có khả năng gây thiệt hại cho
ngành sản xuất nội địa.
Tại Việt Nam, các nhà làm luật có những quan niệm khác nhau về bán phá giá.
Sự khác nhau này được thể hiện qua hai văn bản pháp luật là Pháp lệnh giá năm 2002
(gọi tắt là Pháp lệnh giá) và Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam năm 2004 (gọi tắt là Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu).
Trong Pháp lệnh giá năm 2002, bán phá giá được hiểu là hành vi bán hàng hoá,
dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm
lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước [81, k3 đ4].
Với khái niệm trên, hành vi bán phá giá được xác định từ hai dấu hiệu:
- DN đã bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường của nó
trên thị trường Việt Nam. Phương thức để xác định bán phá giá theo Pháp lệnh giá là
so sánh hai chỉ số giá: giá bán thực tế và giá thông thường của sản phẩm bị điều tra.
Tuy nhiên, hai chỉ số này đều được xác định từ thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi
bán phá giá trong Pháp lệnh giá không phải là hiện tượng phân biệt giá mà chỉ là việc
bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá không theo đúng giá trị thông thường của sản
phẩm.
11
- Mục đích của hành vi là chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp
luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, lợi ích
của Nhà nước. Do đó, nếu chưa xác định được mục đích của hành vi thì chưa thể kết
luận DN đã bán phá giá hàng hóa, dịch vụ.
Khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh giá quy định: Pháp lệnh này quy định quản lý
nhà nước về giá và hoạt động về giá của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh
doanh; và Pháp lệnh này áp dụng áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam [81, k1, 2 Đ 1]. Căn cứ vào
quy định này, tác giả cho rằng cần phải làm rõ một số vấn đề liên quan đến việc áp
dụng quy định về bán phá giá trong Pháp lệnh giá. (1) Văn bản này chỉ giới hạn đối
tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mà
không phân biệt về nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ, nên quy định về bán phá giá có
thể áp dụng đối với sản phẩm nội địa (được sản xuất và tiêu thụ tại Việt Nam) và sản
phẩm nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với hàng hóa nhập khẩu, các quy định về bán phá giá
chỉ điều chỉnh hành vi tiêu thụ hàng hóa đó trên thị trường Việt Nam mà không áp
dụng đối với việc nhập khẩu chúng. (2) Với hàng hóa nhập khẩu, Pháp lệnh giá được
áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh chúng tại Việt Nam đã
có hành vi bán hàng với mức giá quá thấp so với giá thông thường. Do đó, việc bán
phá giá hàng hóa vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không chịu sự
điều chỉnh của Pháp lệnh giá năm 2004. Chỉ khi hàng hóa được lưu thông trên thị
trường Việt Nam và người kinh doanh chúng có hành vi bán hàng hóa quá thấp so với
giá thông thường thì các quy định về bán phá giá được áp dụng để xử lý người thực
hiện hành vi. (3) Theo Pháp lệnh giá, việc chống bán phá giá là một trong những nội
dung của hoạt động quản lý nhà nước về giá, tuy nhiên, có thể thấy rằng các quy định
về chống bán phá giá trong văn bản này chủ yếu nhằm thực hiện chức năng quản lý
cạnh tranh bằng cách ngăn chặn và xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh về giá trên thị
trường. Hành vi bán phá giá đã được Pháp lệnh giá mô tả dưới góc nhìn của quan hệ
cạnh tranh trên thị trường (hành vi có mục đích chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh
tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước).
Mặc dù Pháp lệnh giá năm 2002 có giới hạn điều chỉnh như trên, song đây là văn
bản pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm bán phá giá hàng hóa, dịch vụ. Mặt khác, do
văn bản này có thể áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi được lưu thông trên thị
trường Việt Nam nên việc áp dụng các quy định về bán phá giá có những ảnh hưởng
12
nhất định đến quan hệ thương mại quốc tế. Đánh giá về khái niệm này, chúng tôi cho
rằng khái niệm bán phá giá được ghi nhận trong pháp lệnh giá đã bộc lộ những hạn
chế cả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng. Đồng thời, khái niệm này cũng cho thấy những
khác biệt đáng kể giữa bán phá giá trong thương mại quốc tế và trong quan hệ thương
mại nội địa, cụ thể:
Thứ nhất, khi sử dụng giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường
Việt Nam làm cơ sở để xác định hành vi, nhà làm luật đã quan niệm bán phá giá là việc
DN bán hàng hóa, dịch vụ với giá thấp một cách bất thường. Quan niệm này hoàn toàn
không không thể áp dụng đối với hành vi kinh doanh hàng hóa nhập khẩu trên thị
trường Việt Nam và cũng không phù hợp với chính sách và pháp luật cạnh tranh áp
dụng cho các quan hệ cạnh tranh trong một quốc gia. Với hàng hóa nhập khẩu, chúng
ta không thể xác định được giá thông thường mà chỉ có thể xác định được giá xuất
khẩu và giá tiêu dùng của nó trên thị trường Việt Nam - với tư cách là thị trường nhập
khẩu. Một khi chưa làm rõ được khái niệm giá thông thường trên thị trường Việt Nam
của hàng hóa nhập khẩu thì chưa thể xác định hành vi bán phá giá trên thực tế. Nếu sử
dụng một giá trị nào đó trên thị trường Việt Nam làm giá thông thường cho hàng hóa
nhập khẩu để kết luận chúng bán phá giá thì việc sử dụng ấy chắc chắn tạo ra những
xung đột giữa Việt Nam và các nước có liên quan.
Thứ hai, Trong pháp luật cạnh tranh có quy định về hành vi định giá hủy diệt
(định giá cướp đoạt). Luật cạnh tranh năm 2004 quy định về hành vi bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ với mức giá thấp hơn giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh
tranh. Trong lý thuyết cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh, có hai vấn đề cần lưu ý đối
với hành vi này là (1) hành vi định giá hủy diệt chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp
thống lĩnh hoặc doanh nghiệp độc quyền. Bởi lẽ, các doanh nghiệp chỉ có thể loại bỏ
đối thủ cạnh tranh, gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh trên thị trường bằng việc bán
hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành khi chúng khả năng chi phối thị trường bằng vị trí
thống lĩnh hoặc độc quyền. (2) Cơ sở để xác định hành vi là giá bán và giá thành toàn
bộ của sản phẩm. Vì vậy, khái niệm bán phá giá trong Pháp lệnh giá không phù hợp
với các nguyên lý căn bản của pháp luật cạnh tranh cả về chủ thể áp dụng và căn cứ
xác định hành vi.
Thứ ba, việc sử dụng mục đích chiếm đoạt thị trường, gây hạn chế cạnh tranh
trên thị trường, gây thiệt hại cho các tổ chức cá nhân khác, gây thiệt hại cho Nhà nước
là căn cứ xác định hành vi cho thấy các nhà làm luật đã đánh đồng bán phá giá với
13
hành vi định giá hủy diệt đã được quy định trong pháp luật cạnh tranh. Quan niệm này
cho thấy sự khác biệt về cơ sở để xác định hành vi bán phá giá trong thương mại nội
địa và thương mại quốc tế. Trong thương mại quốc tế, người thực hiện hành vi bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu là DN xuất khẩu nước ngoài. Việc truy tìm mục đích thực sự
của chủ thể bên ngoài lãnh thổ của quốc gia nhập khẩu không thể thực hiện được. Vì
vậy, chính sách và pháp luật thương mại quốc tế không sử dụng mục đích làm căn cứ
để xác định hiện tượng bán phá giá mà sử dụng thiệt hại vật chất do bán phá giá gây ra
làm cơ sở để quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập
khẩu.
Từ những nghiên cứu về hoàn cảnh xây dựng Pháp lệnh giá, chúng tôi cho rằng
các hạn chế trong những quy định về bán phá giá trong văn bản này có thể được lý giải
từ các nguyên nhân sau:
- Việt Nam biết đến pháp luật chống bán phá giá khi các hàng hóa có xuất xứ từ
Việt Nam bị kiện bán phá giá tại các nước khác. Tính đến tháng 9 năm 2009, tổng số
vụ việc phòng vệ thương mại mà các nước điều tra đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt
Nam là 37 vụ (chủ yếu là điều tra về bán phá giá) trong khi chúng ta chưa từng điều tra
về bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Vì vậy, các nhà khoa học,
các cơ quan nhà nước, các DN đã dành nhiều nỗ lực để tìm kiếm các giải pháp ứng
phó với những vụ kiện chống bán phá giá với tư cách bị đơn hơn là xây dựng cơ chế
để chủ động khởi kiện hàng hóa nước ngoài nhập khẩu bán phá giá vào thị trường Việt
Nam. Với tâm lý đó, việc tiếp cận các quy định của pháp luật quốc tế và các quốc gia
khác chủ yếu nhằm phục vụ cho công tác kháng kiện mà chưa có những nỗ lực cần
thiết để tiếp nhận những nguyên tắc và lý luận về phòng vệ quốc tế vào pháp luật Việt
Nam (PL VN). Trong thập niên 1990, một số nhà nghiên cứu còn đưa ra những quan
điểm sai lệch về bán phá giá, ví dụ, trong sách tham khảo Bán phá giá và biện pháp,
chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu, do Nxb Thống kê xuất bản năm 1998,
tác giả Đoàn Văn Trường lại đánh đồng hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
với tình trạng hàng hóa nhập lậu bán hàng giá thấp do không chịu thuế nhập khẩu và
không phân biệt bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với việc hàng hóa được các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất tại Việt Nam bán hàng hóa với giá quá thấp
gây thiệt hại cho các doanh nghiệp trong nước [72, tr 95-132].
- Chủ trương về hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước trong thời gian Pháp
lệnh giá được xây dựng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình nhận thức về pháp luật
chống bán phá giá. Trong suốt thời gian dài từ thập niên 1990, chủ trương hội nhập