Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

những giải pháp phát triển dịch vụ Ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Đống đa.DOC
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển, Việt Nam đã chính thức gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) - Tổ chức Thương mại đa phương lớn
nhất toàn cầu. Ngành ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa
mạnh mẽ và phát triển nhất, nó là một kênh trung gian chuyển tải vốn ra thị
trường và điều chỉnh nguồn vốn của thị trường. Đồng nghĩa với đó, thị trường
tài chính - tiền tệ Việt Nam cũng là một sân chơi chung cho các Tổ chức Tín
dụng trong và ngoài nước, và từ đó, các ngân hàng nước ngoài sẽ được thiết
lập sự hiện diện thương mại của mình tại Việt Nam. Một hệ thống cạnh tranh
mới về dịch vụ cũng được khẳng định và chiếm lĩnh, các quan hệ thương mại
theo đó sẽ trở nên ngày càng phát triển và đa dạng. Điều này đã đặt ra những
đòi hỏi và thách thức đối với các ngân hàng thương mại trong nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam
đang từng bước thiết chế cho mình các mạng lưới, đổi mới các hình thức hoạt
động, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ nhằm nâng cao sức cạnh tranh để có thể
đứng vững trên thị trường. Đối với một ngân hàng hiện đại và phát triển như
các nước ngoài, hoạt động dịch vụ phát triển rất mạnh, nguồn thu từ hoạt động
dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng nhất định đến ngân hàng. Trong khi
đó, đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, thu chủ yếu vẫn tập trung vào
các hoạt động truyền thống như cho vay, bảo lãnh, tiền gửi. Nguồn thu từ các
dịch vụ hoặc chưa có, chưa khai thác hết hoặc rất khiêm tốn trong tổng thu của
ngân hàng, trong khi, hoạt động tín dụng và bảo lãnh lại là hoạt động có nhiều
rủi ro và rủi ro cao. Bởi vậy, phát triển dịch vụ ngân hàng tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam là một chiến lược đúng đắn và cần thiết.
1
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những ngân hàng
thương mại hàng đầu ở Việt Nam, quy mô tài sản nợ và tài sản có hàng năm
tăng từ 20%-25%. Tuy vậy, hiện nay trước bối cảnh thực hiện lộ trình mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế thì quả thực hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
nói chung và ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng sẽ phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt
là các dịch vụ Ngân hàng hết sức hạn chế. Chính vì vậy, bằng cách nào, biện
pháp nào, và giải pháp nào để nhanh chóng phát triển thị trường tiềm năng này
đang là bài toán lớn mà các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung và
ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng cần có lời giải.
Là một Chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng
Công thương Đống Đa cũng đang trong quá trình tìm kiếm những giải pháp tốt
nhất để có thể phát triển hơn nữa thị trường tiềm năng này.
Xuất phát từ nhận thức nói trên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển dịch vụ
Ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Đống đa”.
1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ những vai trò, nội dung cơ bản của các loại hình dịch vụ ngân
hàng tại Ngân hàng thương mại.
- Tiến hành phân tích thực trạng tại Ngân hàng Công thương Đống đa.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ tại Ngân hàng
Công thương Đống đa trong thời gian tới.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Các loại hình của dịch vụ ngân hàng thương mại
- Hoạt động dịch vụ của Ngân hàng Công thương Đống đa trong những
năm gần đây không bao gồm đến hoạt động nhận gửi, cho vay và đầu tư.
2
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, kết hợp giữa lý luận và
tình hình thực tế hoạt động của Ngân hàng. Đồng thời vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp số liệu, phương
pháp so sánh, phương pháp đánh giá báo cáo tổng kết để đưa ra nhận định và
giải pháp.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, bảng biểu và các tài liệu tham
khảo, luận văn được trình bày trong 03 chương:
Chương I: Một số vấn đề về dịch vụ ngân hàng của ngân hàng
thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động dịch vụ ngân hàng tại Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Chương III: Giải pháp phát triển dịch ngân hàng tại Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Đống Đa.
3
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 . KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất đối với
nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ
hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Theo Giáo sư Peter S.Rose trong cuốn “Quản trị ngân hàng thương mại”
thì Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế.
Còn theo Ngân hàng Thế giới định nghĩa: Ngân hàng là tổ chức tài chính
nhận tiền gửi chủ yếu ở dưới dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với
một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết
kiệm). Các Ngân hàng gồm có: Ngân hàng thương mại - chỉ tham gia vào các
hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn, trung và dài hạn; Ngân hàng Đầu tư -
hoạt động buôn bán chứng khoán và bảo lãnh phát hành; Ngân hàng Nhà ở -
cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát triển nhà ở và nhiều loại khác nữa. Tại
một số nước còn có các ngân hàng tổng hợp kết hợp hoạt động ngân hàng
thương mại với hoạt động ngân hàng đầu tư và đôi khi thực hiện cả dịch vụ
bảo hiểm.
4
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
Luật pháp nước Mỹ thì cho rằng” “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài
khoản tiền gửi cho phép khách hàng gửi tiền theo yêu cầu và cho vay đối với
tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”.
Còn theo Luật các Tổ chức Tín dụng ở Việt Nam, tại khoản 2 điều 20
quy định: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Từ những định nghĩa nói trên có thể rút ra Ngân hàng là một trong
những định chế tài chính, mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài
chính, với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả
mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
Khái niệm "dịch vụ ngân hàng" cho đến nay vẫn chưa có sự minh định
rõ ràng và còn nhiều cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng ngành ngân
hàng không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội nên
được xếp là ngành dịch vụ. Do vậy, tất cả các hoạt động của ngân hàng phục
vụ cho doanh nghiệp và công chúng đều được coi là dịch vụ ngân hàng.
Song, cũng lại có quan điểm cho rằng dịch vụ ngân hàng không thuộc
phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức
năng của một trung gian tài chính (nhận tiền gửi và cho vay) mà chỉ những
hoạt động không thuộc trung gian nói trên mới gọi là dịch vụ ngân hàng (như
chuyển tiền, môi giới kinh doanh chứng khoán, thu đổi ngoại tệ, quản lý tiền
mặt…).
Để hiểu về dịch vụ ngân hàng, trước hết cần làm rõ thuật ngữ dịch vụ:
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, dịch vụ là các hoạt động nhằm thoả
mãn những nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Còn trong cuốn "Lựa
chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở cửa về dịch vụ thương mại" thì
5
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
khái niệm về dịch vụ lại được hiểu là các hoạt động của con người được kết
tinh trong giá trị của kết quả trong giá trị của các loại sản phẩm vô hình và
không thể cầm nắm được.
Vậy, ta có thể thấy hai đặc trưng cơ bản của dịch vụ:
Thứ nhất, Dịch vụ là một sản phẩm.
Thứ hai, Dịch vụ là vô hình (phi vật chất) khác với hàng hoá là hữu
hình.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính, vậy thế nào là dịch vụ tài chính?
Dịch vụ tài chính là thuật ngữ được dùng để chỉ hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán. Theo WTO, dịch vụ tài chính là
bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính được một nhà cung cấp dịch vụ tài
chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ
liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác
(ngoại trừ bảo hiểm). Như vậy, dịch vụ ngân hàng được đặt trong nội hàm của
dịch vụ tài chính. Trong cuốn sách "Phát triển thị trường tài chính Việt Nam
trong tiến trình hội nhập" của Phó Giáo Sư - Tiến sỹ Thái Bá Cẩn và Tiến sỹ
Trần Nguyên Nam cho rằng: Dịch vụ ngân hàng gồm 11 loại hình: Nhận tiền
gửi, cung cấp các tài khoản giao dịch, quản lý tiền mặt, trao đổi ngoại tệ (dịch
vụ kiều hối), dịch vụ về tín dụng (chiếu khấu thương phiếu, cho vay tài trợ dự
án, cho vay tiêu dùng), dịch vụ uỷ thác, cho thuê tài chính, tư vấn tài chính,
dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp.
Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng cần được hiểu theo hai khía cạnh: Rộng
và hẹp.
Theo nghĩa rộng: Dịch vụ ngân hàng là toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối…của hệ thống ngân hàng đối với doanh nghiệp và
công chúng. Quan niệm theo nghĩa rộng này được sử dụng để xem xét lĩnh vực
6
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
dịch vụ ngân hàng trong cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân của một quốc
gia. Quan niệm này phù hợp với cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong
dịch vụ tài chính của WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng
như nhiều nước phát triển.
Theo nghĩa hẹp: Dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoài
chức năng truyên thống của định chế tài chính trung gian (nhận tiền gửi và cho
vay). Quan niệm này nên dùng trong phạm vi hẹp khi xem xét hoạt động của
một ngân hàng cụ thể để xem xét các dịch vụ mới phát triển như thế nào, cơ
cấu của chúng trong toàn bộ hoạt động của mình.
Trong bài này, dịch vụ ngân hàng được xem xét theo nghĩa hẹp, không
bao hàm hoạt động truyền thống của ngân hàng thương mại như huy động vốn
và cho vay. Các dịch vụ ngân hàng được đề cập ở đây là các hoạt động gắn liền
với việc thu phí, hưởng hoa hồng do các ngân hàng thương mại thực hiện
thông qua việc phục vụ các doanh nghiệp, các tổ chức, các cá nhân nhằm tăng
nguồn thu cho ngân hàng.
1.1.2Đặc điểm của dịch vụ Ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng trước hết mang những đặc điểm chung của hoạt động
dịch vụ như: dịch vụ là vô hình (phi vật chất). Tính vô hình là đặc điểm để
phân biệt sản phẩm dịch vụ với các sản phẩm của ngành sản xuất vật chất khác
trong các ngành kinh tế. Bởi vô hình nên sản xuất và cung ứng dịch vụ diễn ra
đồng thời nhưng không thể sản xuất hàng loạt và lưu giữ trong kho để sau đó
tiêu dùng.
Ngoài ra, dịch vụ ngân hàng có những đặc điểm nổi bật sau:
Một là, hoạt động dịch vụ không đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải
sử dụng nguồn vốn của mình. Đây là một thuận lợi lớn cho các ngân hàng
thương mại có vốn tự có hạn hẹp như các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do
7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
vậy, việc mở rộng hoạt động dịch vụ các loại trở thành lĩnh vực rất cần được
các ngân hàng thương mại quan tâm triển khai.
Hai là, hoạt động dịch vụ của ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián
tiếp làm tăng thu nhập của ngân hàng thông qua việc thu phí, chênh lệch giá,
hoa hồng…
Nếu hoạt động tín dụng đem lại nguồn thu nhập từ chênh lệch lãi suất
cho vay thu được và lãi suất đầu vào phải trả thì đối với các hoạt động dịch vụ
thu nhập được hình thành từ phí dịch vụ, chênh lệch giá, hoa hồng… (gọi
chung là phí dịch vụ).
Một số dịch vụ không đem lại nguồn thu trực tiếp cho ngân hàng nhưng
lại nhằm thúc đẩy sự phát triển dịch vụ khác hoặc tăng sức cạnh tranh của ngân
hàng nhằm lôi kéo khách hàng.
Hoạt động dịch vụ đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng thương mại do
chi phí ban đầu thường thấp. Đây được coi là một lĩnh vực kinh doanh hiệu
quả thu hút các ngân hàng thương mại hiện đại trên thế giới.
Ba là, hoạt động dịch vụ được xếp vào những lĩnh vực kinh doanh tương
đối an toàn, có rủi ro thấp. Vì thế, mở rộng hoạt động dịch vụ sẽ giúp ngân
hàng hạn chế những rủi ro như rủi ro lãi suất, đặc biệt là những rủi ro tín dụng
do tính chất thông tin bất cân xứng của thị trường tài chính đem lại.
Bốn là, hoạt động dịch vụ ngân hàng đòi hỏi cơ sở hạ tầng tương xứng.
Các ngân hàng thương mại không thể triển khai hoạt động dịch vụ phục vụ
khách hàng cá nhân cũng như doanh nghiệp nếu cơ sở vật chất nghèo nàn,lạc
hậu. Hoạt động này gắn liền với sự phát triển của công nghệ hiện đại trong lĩnh
vực ngân hàng. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình và thành thạo
trong các hoạt động nghiệp vụ cũng là đòi hỏi của hoạt động dịch vụ ngân
hàng.
8
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
Năm là, Các dịch vụ ngân hàng mang tính hỗ trợ cao, có mối liên kết
chặt chẽ với nhau. Sự ra đời và phát triển dịch vụ này là tiền đề cho sự ra đời
và phát triển của dịch vụ khác. Ví dụ: Dịch vụ thanh toán quốc tế phát triển đã
đẩy mạnh sự phát triển của dịch vụ mua bán ngoại tệ.v.v…
Nhờ đó, đã tạo nên sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các dịch vụ trong sự phát
triển dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng có thể cung cấp những dịch vụ trọn gói
cho khách hàng.
1.2 CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CHỦ YẾU
Ngân hàng thực hiện rất nhiều các nghiệp vụ khác nhau, trong đó có thể
kể đến một số hoạt động cơ bản như sau:
1.2.1 Nhận tiền gửi
Đây là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất đối với hoạt động
kinh doanh của một ngân hàng thương mại. Hoạt động nhận tiền gửi giúp ngân
hàng có được nguồn vốn để từ đó thực hiện các hoạt động kinh doanh khác,
đặc biệt là nghiệp vụ cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các
khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Khách hàng có những khoản tiền
nhàn rỗi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng có thể gửi vào ngân hàng trong
khoảng thời gian ngắn hoặc dài tuỳ nhu cầu dự kiến sử dụng trong tương lai.
Vì đây là nguồn vốn quan trọng, hơn nữa trong điều kiện cạnh tranh ngày càng
gay gắt nên các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động nguồn vốn này bằng
nhiều phương thức khác nhau đồng thời cố gắng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
người gửi tiền.
Một nguồn vốn khác là lượng tiền trên các tài khoản tiền gửi giao dịch
mà ngân hàng có thể sử dụng trong thời gian khách hàng chưa cần dùng đến.
Đây là loại tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho
việc mua hàng hoá, dịch vụ và các nhu cầu cá nhân khác. Ngoài ra, ngân hàng
9
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
còn có thể huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành các chứng khoán
nợ trên thị trường tài chính như: chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu. Để thu hút được
nguồn vốn này, ngân hàng thường phát hành các loại chứng khoán với nhiều
loại kỳ hạn, mức lãi suất khác nhau, có thể ghi danh hoặc không ghi danh.
1.2.2 Cho vay
Chiết khấu
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực
tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương thông qua việc mua bán các
khoản nợ của khách hàng (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân
hàng để lấy tiền trước). Ngày nay, không chỉ dừng lại ở chiết khấu thương
phiếu, các ngân hàng thương mại còn chiết khấu các chứng khoán đang còn
thời hạn thanh toán. Qua nghiệp vụ này các ngân hàng thu được lãi suất chiết
khấu, còn khách hàng được đáp ứng nhu cầu về vốn.
Cho vay thương mại
Thay vì tài trợ gián tiếp dưới hình thức chiết khấu, các ngân hàng còn
cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua) giúp họ có vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh. Hình thức cho vay thương mại có thể là cho vay
ngắn hạn dự trữ hàng tồn kho, hoặc cho vay trung, dài hạn để đầu tư cho việc
mua máy móc, thiết bị, nhà xưởng.v.v…
Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không nhiệt tình cho vay với các cá
nhân và hộ gia đình do có mức sinh lời không cao và nhiều rủi ro. Song sự gia
tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng
các ngân hàng tới người tiêu dùng như là những khách hàng tiềm năng. Từ sau
chiến tranh thế giới thứ II, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những
loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất.
10