Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

những giải pháp đồng bộ để hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ
XUẤT NHẬP KHẨU Ở NƯỚC TA
I. ĐÔI NÉT VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU QUA CÁC
THỜI KỲ .
1.Thời kỳ phong kiến và thực dân pháp thống trị .
1.1. Thời kỳ phong kiến Việt Nam .
Thời kỳ mở đầu dựng nước ở Việt nam cách đây khoảng 4000 năm lịch sử,
từ khi kỹ thuật luyện kim bắt đầu xuất hiện, đây là thời đại Hùng Vương, thời
kỳ này nền kinh tế mang tính chất một nền kinh tế tự nhiên, con người đã biết
trồng trọt canh tác và thuần hoá các con vật để chăn nuôi chúng hoạt động trao
đổi không diễn ra, cho nên hầu như không có hoạt động ngoại thương. Đến thời
kỳ phong kiến hoá (179Tr CN- 983) đây là thời bọn phong kiến Trung quốc
đô hộ nước ta. Thời kỳ này ngoài việc phải cống nộp ra chúng nhưng sản vật
quý, chúng còn thi hành chính sách thuế bóc lột đó là tô thuế, thuế muối, thuế
sắt và lao dịch. Hoạt động ngoại thương đều do Trung quốc quản lý, chúng thi
hành chính sách độc quyền về ngoại thương. Sau đó đến thời kỳ phong kiến tự
chủ, nước ta đã trải qua rất nhiều triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,Hồ và
Lê sơ nhìn chung tất cả đều thi hành chính sách kinh tế “dĩ nông vi bản “từ đó
đi tới chính sách trọng nông ức công thưong. Về ngoại thương thì do hệ thống
giao thông đường thuỷ đã mở ra mối liên hệ và giao lưu giữa Việt nam vói
nước ngoài, đặc biệt thời kỳ Lý-Trần thì Vân đồn (Quảng Ninh )là cửa khẩu
quan trọng, ở đó có các thuyền buôn nước ngoài đến buôn bán hàng hoá.Tiếp
đó là thời kỳ Lê Mạt tới thời Nguyễn đây vốn là thời kỳ khủng hoảng suy vong
của chế độ phong kiến Việt Nam. Nhà nước lại thực hiện chính sách kìm hãm
sự phát triển của công thương nghiệp khiến nó rơi vào tình trạng khủng hoảng,
ở trong nước thì nhà nước đánh thuế khoá nặng nề làm cho nhiều ngành bị phá
1
sản, đối với hoạt động ngoại thương thì bằng những chính sách thuế cao đối với
nhiều loại hàng hoá và thực hiện ngăn cấm với nước ngoài. Nhưng đến cuối thế
kỷ thứ 19 dưới triều đại Quang Trung thì nhà nước lại giảm bỏ nhiều loại thuế
tạo điều kiện cho các thương nhân làm ăn buôn bán, trong quan hệ ngoại
thương thì nhà nước cho phép thuyền buôn nước ngoài đựơc ra vào và buôn
bán rễ ràng ở các thương cảng .
Đến nửa đầu thế kỷ 19 khi triều đại nhà Nguyễn lên nắm quyền thống trị
đất nước, thì nền kinh tế lại rơi vào tình trạng khủng hoảng. Trong quan hệ
buôn bán với nước ngoài thì nhà nước thực hiện chính sách “bế quan toả cảng”,
nhiều thuyền buôn phương Tây đến đặt quan hệ thương mại đều bị khước từ .
Nhìn chung trải qua tất cả các thời kỳ nền kinh tế Việt Nam kéo dài trong
tình trạng một nền kinh tế tự nhiên,tự cấp,tự túc cho nên hoạt động ngoại
thương vẫn kém phát triển, những chính sách thuế quan hầu như không có .
1.2. Giai đoạn thực dân Pháp thống trị (1858-1945).
Sau khi thôn tính được Việt Nam để tăng cường vơ vét, bóc lột và kìm hãm
sự phát triển nền kinh tế chúng đã thực hiện hai chính sách lớn: chính sách liên
hợp thuế quan và chính sách liên hợp tiền tệ. Với chính sách kiên hợp thuế
quan thì chúng đã đặt ra hàng trăm thứ thuế, trong thuế trực thu thì có thuế đinh
và thuế điền, thuế gián thu thì có thuế thuế rượu, thuế muối, thuế phiện. Ngoài
ra còn có nhũng thứ thuế rất là vô lý như thuế mái hiên, thuế đổ rác, thuế súc
vật ...
Còn trong hoạt động ngoại thương thì chúng thực hiện chính sách thực dân
độc quyền thương mại và thực hiện trao đổi không ngang giá. Việc buôn bán ở
Việt Nam chủ yếu đều nằm trong tay tư bản Pháp còn người Việt Nam chỉ là
buôn bán nhỏ, chúng chỉ mua nguyên vật liệu với giá rẻ còn bán hàng hoá với
gía đắt . Ngoài ra chúng còn thực hiện chính sách đồng hoá thuế quan được thể
hiện :
* Hàng của Pháp nhập vào Việt nam thì không bị đánh thuế
* Hàng nước ngoài nhập vào Việt nam thì bị đánh thuế cao.
2
* Hàng Việt nam xuất sang Pháp không bị đánh thuế, chủ yếu là nông lâm
thuỷ sản chiếm 95% trong đó trong đó gạo chiếm tỷ trọng lớn. Trong thời kỳ
này 62% lượng hàng nhập khẩu vào Việt Nam là hàng của Pháp .
Nhưng đến sau năm 1939 thì chúng lại thực hiện chính sách thuế quan tự trị
với nội dung: (1) các mặt hàng buôn bán giữa Pháp vào Vệt nam thì lại không
được miễn thuế nữa, (2)thuế xuất nhập khẩủ Đông Dương thì do Đông Dương
tự quyết định và phải được sự chuẩn y của Pháp. Nền kinh tế Việt nam trong 50
năm (1890-1939) liên tục xuất siêu, 11 năm xuất siêu và 9 năm nhập siêu.
2. Chính sách thuế xuất nhập khẩu từ 1945 đến nay.
Ngày 13/08/1951 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 49/SL quy định
nguyên tắc tổ chức quản lý ngoại thương và thể lệ xuất nhập khẩu. Văn kiện
lịch sử này đặt nền móng để xây dựng chính sách quản lý xuất nhập khẩu sau
này. Nhưng do chiến tranh nên sau khi thống nhất đất nước thì chính sách quản
lý xuất nhập khẩu mới được định hình và vận hành, đồng thời từng bước được
sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt từ khi bước vào thời kỳ đổi
mới, phương sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đã mở
đường cho việc hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hoá hướng vào xuất
khẩu thay thế nhập khẩu của các thành phần kinh tế phong phú hướng ra thị
trường, hướng ra bên ngoài. Đó là yếu tố nội lực đòi hỏi phải chuyển đổi chính
sách xuất nhập khẩu. Cùng lúc đó sự biến động của các nước XHCN, sự bao
cấp viện trợ quốc tế không còn nữa, việc buôn bán phải hoà nhập vào cộng
đồng thế giới. Đây là yếu tố khách quan cũng rất bức bách không những phải
đổi mới mà phải đổi mới nhanh chóng, đồng bộ toàn diện chính sách quản lý
xuất nhập khẩu để có đIều kiện đưa nền ngoại thương nói riêng và nền kinh tế
nước ta nói chung vượt qua khủng hoảng để có bước phát triển.
Bước “ đột phá “ của việc đổi mới chính sách là mạnh dạn thay đổi quan niệm
về Nhà nước độc quyền ngoại thương,mà nhà nước chỉ độc quyền ban hành
chính sách,luật pháp thực hiện quản lý thông qua hành lang pháp lý, thực hiện
qua luật thuế xuất nhập khẩu .
3
II. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam .
Luật thuế xuất, nhập khẩu đầu tiên Việt Nam ra đời vào tháng 12 năm 1987
để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và thay thế cho chế độ thu bù chênh lệch
ngoại thương trước đó. Sau một thời gian áp dụng, Luật thuế xuất nhập khẩu
được sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1991, lần thứ hai vào năm 1993 và lần gần
đây nhất là ngày 20/05/1998. Trong đó vấn đề mà thường xuyên được các
thương gia và nhà nước quan tâm nhiều nhất là biểu thuế suất đối với hàng xuất
khẩu và nhập khẩu.
1.1. Biểu thuế xuất khẩu .
Mỗi thời kỳ ta có một biểu thuế riêng để ngày càng phù hợp hơn với điều
kiện của đất nước và phát huy được lợi thế cạnh tranh.
Vào năm 1991 biểu thuế hàng xuất khẩu của ta có 11 mức (từ 0%- 45%)
đánh vào hơn 60 nhóm hàng. Ta có thấy kết cấu của biểu thuế thông qua bảng
sau:
Bảng về biểu thuế xuất khẩu một số mặt hàng.
4