Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhập khẩu phế phẩm và xuất khẩu phế phẩm tái chế hiện nay tại Việt Nam docx
MIỄN PHÍ
Số trang
96
Kích thước
442.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1845

Nhập khẩu phế phẩm và xuất khẩu phế phẩm tái chế hiện nay tại Việt Nam docx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Lời nói đầu

Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh

và sâu sắc. Đó là xu thế tất yếu khách quan và là một quy luật mà mọi quốc gia trong

khu vực và trên thế giới đều phải tuân theo. Biểu hiện rõ nét nhất của xu thế này là quá

trình tự do hoá buôn bán trong khu vực và phạm vi toàn cầu.

Thực hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế của đất nước hội nhập với nền kinh tế

thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối

ngoại, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế. Trong đó,Thương mại quốc tế

là lĩnh vực quan trọng để Việt Nam dần có chỗ đứng trong khu vực và trên phạm vi thế

giới, thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng VIII đề ra: “Mở rộng hợp tác quốc tế, đa

phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại...xây dựng một nền kinh tế mở,

hội nhập khu vực và thế giới...”*

Hoạt động Thương mại quốc tế bao gồm nội dung chủ yếu và quan trọng là các hoạt

động xuất nhập khâủ. Nếu xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ tích luỹ cho đất nước thì

hoạt động nhập khẩu tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng,

thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kỹ

thuật. Xuất khẩu nhằm bảo đảm nguồn vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu phục vụ cho

công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng

mạnh vào xuất khẩu...

Định hướng cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ sự cần thiết: “...Đẩy mạnh xuất khẩu, huy động các

nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các vật tư hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống,

tích cực cân đối cán cân thanh toán quốc tế góp phần duy trì các cân đối lớn của nền

kinh tế.”**

* Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB sự thật.

** Nghị quyết đại hội đại Toàn quốc lần thứ VII. NXB sự thật

Thực hiện tốt công tác xuất nhập khẩu sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu cấp

bách hiện nay của nền kinh tế.

Vì vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động Xuất - Nhập khẩu của các doanh nghiệp để

tìm ra biện pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh Xuất - Nhập khẩu là vấn đề quan

trọng hiện nay.

Xuất phát từ quan điểm trên, đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt

động nhập khẩu bao bì ở Công ty XNK và kỹ thuật PACKEXPORT ” đã được chọn

làm nội dung nghiên cứu. Mục tiêu của đề tài này là thông qua việc xem xét và phân

tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu, để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu,

và những hạn chế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT

nhằm đưa ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty

PACKEXPORT.

Kết cấu của bài luận văn gồm 3 phần:

Phần thứ nhất: Hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh

nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Phần thứ hai: Phân tích thực trạng hoạt động Nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu

và Kỹ thuật Bao bì.

Phần thứ ba: Những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu đối với Công ty

Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì

Phần thứ nhất :

Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh nghiệp trong nền kinh

tế thị trường.

I. Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.

1. Khái niệm.

Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào có

thể duy trì được nền kinh tế tự túc khép kín. Bởi để duy trì nó thì phải bỏ ra rất nhiều

nguồn lực song hiệu quả lại không cao. Trong khi đó yếu tố nguồn lực thì có hạn, đối

lập hẳn với thực tế nhu cầu của con người là vô hạn và rất đa dạng. Lý thuyết về thương

mại quốc tế giúp chúng ta nhận thấy các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương

mại quốc tế và lợi ích rõ nhất mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được từ thương mại

quốc tế mà nó có thể bù đắp và bù đắp một cách hiệu quả những nhu cầu của con người

ta về một loaị hàng hoá nào đó mà nội địa chưa hoặc không có khả năng đáp ứng được.

Với ý nghĩa ấy, Nhập khẩu được hiểu là hoạt động mua hàng hoá của các doanh

nghiệp trong nước từ nước ngoài nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng như

sản xuất trong nước và là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia. Nhập

khẩu là một trong những hoạt động cốt lõi của thương mại quốc tế

2. Vai trò nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Ngày nay, dưới tác động của xu thế tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều

nỗ lực tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đều hướng các chính sách kinh tế,

thương mại của quốc gia mình theo khuôn khổ các khối mậu dịch mà họ sẽ tham gia ở

tầm khu vực như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA), Khu vực mậu dịch tự do

Bắc Mỹ( NAFTA), ... ở cấp độ liên lúc địa như ASEM, và cao hơn nữa là cấp độ toàn

cầu như tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong bối cảnh ấy hoạt động xuất nhập

khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh ở phạm vi

quốc tế. Không phải là những hành vi buôn bán lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ

buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong nước và bên ngoài nước

nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong

nước, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, hoạt động nhập

khẩu tác động trực tiếp lẫn gián tiếp tới sản xuất và đời sống trong nước, nó có thể đem

lại hiệu quả kinh tế cao cũng như gây thiệt hại cho nền kinh tế trong nước do tính chất

phức tạp của nó khi có yếu tố quốc tế tham gia vào. Nhập khẩu với tư cách là một trong

hai hoạt động chủ yếu của thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng đối

với sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như sự phát triển của thương mại quốc

tế.

Trước hết, nhập khẩu có vai trò to lớn trong việc bù đắp những thiếu hụt về cầu do

sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Không những thế, nhập khẩu còn tạo ra những

nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cho

thị trường. Điều đó có nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo nên sự cân đối tích cực giữa

cung và cầu trên thị trường trong nước. Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân

đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.

Thứ hai, nhập khẩu giúp quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, khai thác

được tính lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Không chỉ

tạo thêm hàng tiêu dùng trong nước, nhập khẩu còn tạo nên nguồn nguyên liệu đầu vào

phục vụ sản xuất trong nước, tạo ra chuyển giao công nghệ. Nhờ đó nó góp phần thúc

đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự

đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, tiết kiệm đựơc chi phí và thời gian, tạo ra

sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá bỏ tình trạng độc quyền

trong nước.

Thứ ba, với những sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao, nhập khẩu làm tăng

sức cạnh tranh trên thị trường, tạo ra năng lực mới trong sản xuất. Các doanh nghiệp

nội địa phải chịu một sức cạnh tranh lớn, để tồn tại họ buộc phải năng động hơn, vươn

lên chiến thắng trong cạnh tranh. Qua đó, hiệu quả sản xuất trong nước được nâng cao,

hàng hoá nội địa trở nên có tính cạnh tranh hơn, người lao động có nhiều cơ hội tìm

việc làm hơn góp phần nâng cao đời sống kinh tế - xã hội.

Thứ tư, kết hợp với xuất khẩu, nhập khẩu tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất

và tiêu dùng trong nước và nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động

quốc tế phát triển. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh quốc tế hoá diễn ra mạnh

mẽ ngày nay. Nó mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nền kinh tế,.v.v.

Đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đã có thêm sức mạnh mới, cơ

chế tập trung quan liêu bao cấp với nhiều nhược điểm từng bước được thay thế bằng

tính năng động, tự chủ của cơ chế thị trường. Ngoại thương của Việt Nam không còn

chỉ bó hẹp trong phạm vi nội khối xã hội - chủ nghĩa qua các khoản viện trợ hoặc qua

các nghị định thư mà được mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Chính sách phát triển

kinh tế, thương mại Việt Nam từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung

của thời đại, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của nhập khẩu ngày trở

nên rõ rệt: Không chỉ là nhân tố giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền

kinh tế thế giới mà còn là nhân tố làm thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp Việt

Nam. Để tiếp tục phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu, Nhà nước ta xác định:

Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần chú ý tạo uy tín và quan hệ lâu dài với bạn

hàng, coi trọng tính hiệu quả kinh tế trong nhập khẩu, biết kết hợp hài hoà giữa các mặt

lợi ích.

3. Các hình thức nhập khẩu.

Không phải ngẫu nhiên ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào các hoạt

động thương maị quốc tế mà là do kinh doanh quốc tế có sự phong phú đa dạng về các

phương thức hoạt động. Chính sự đa dạng này cho phép các doanh nghiệp tìm thấy

được lợi ích thông qua việc lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của mình nhất.

Trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đến nay có một số phương thức nhập

khẩu chủ yếu sau mà các doanh nghiệp thường lựa chọn:

a/ Nhập khẩu uỷ thác.

Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia

một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao

dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương

thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp

tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán

với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được

hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.

Đặc điểm:

- Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác)

không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị

trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch,

ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu

nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.

- Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu

chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai

hợp đồng:

1. Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài.

2. Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác.

b/ Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp).

Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp.

Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên

cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập

khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.

Đặc điểm:

- Do phải đứng ra tiến hành các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn

thất cũng như lợi nhuận thu được. Vì vậy, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải

thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu

tiền.

- ở phương thức này, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước

ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau.

c/ Nhập khẩu liên doanh.

Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một

cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu

trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp

có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có

lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng gánh chịu.

Đặc điểm:

- Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ

phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên.

- Theo phương thức này, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch

nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số

hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu

phải lập hai hợp đồng:

1. Một hợp đồng với đối tác nước ngoài.

2. Một hợp đồng với đối tác liên doanh.

Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập

khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán bằng hàng

(còn gọi là mua bán đối lưu) là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiêp

Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một

phương thức nhập khẩu có hiệu quả.

d/ Nhập khẩu hàng đổi hàng.

Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của

buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh

toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở

đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được

hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa.

Đặc điểm:

- Phương thức này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt

khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu.

- Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu.

- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch nhập khẩu trực

tiếp và kim nghạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng.

- Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng biện pháp sau:

+ Dùng thư tín dụng đối ứng: Là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của

nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một

thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương.

+ Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này sẽ chỉ

giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng

hoá có giá trị tương đương.

e/ Nhập khẩu tái xuất.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!