Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
-------o-------
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
NĂM 2006 - 2008
Mã số:B06 – 49
NHẬN DIỆN THAM NHŨNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
CHỦ NHIỆM ĐỀTÀI :PGS,TSKH PHAN XUÂN SƠN
THƯ KÝ KHOA HỌC : ThS PHẠM THẾ LỰC
CƠ QUAN CHỦ TRÌ : VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC
6881
30/5/2008
HÀ NỘI 1/2008
DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN
1. PGS,TSKH Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm) Viện Chính trị học
2. ThS Phạm Thế Lực (Thư ký khoa học) Viện Chính trị học
3. GS,TS Nguyễn Văn Huyên Viện Chính trị học
4. GS,TS Lưu Văn Sùng Viện Chính trị học
5. PGS,TS Lê Minh Quân Viện Chính trị học
6. TS Ngô Huy Đức Viện Chính trị học
6. TS Nguyễn Hữu Đổng Viện Chính trị học
7. TS Đặng Đình Tân Viện Chính trị học
8. TS Lưu Văn Quảng Viện Chính trị học
9. TS Trịnh Thị Xuyến Viện Chính trị học
10.ThS Đinh Thị Hà Viện Chính trị học
11.ThS Bùi Việt Hương Viện Chính trị học
12.GS,TS Hoàng Chí Bảo Hội đồng Lý luận Trung ương
13.PGS,TS Đinh Văn Mậu Học viện Hành chính Quốc gia
14.TS Lê Đăng Doanh Bộ Kế hoạch và Đầu tư
15.TS Phùng Thị Huệ Viện nghiên cứu Trung Quốc
16.TS Nguyễn Minh Phương Viện Khoa học tổ chức - Bộ Nội vụ
17.ThS Đinh Văn Minh Viện Khoa học Thanh tra - Thanh tra Chính phủ
18.ThS Nguyễn Thị Lan Trường CĐ kinh tế - kỹ thuật Nghệ An
19.Nguyễn Khắc Bộ Nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AU Liên minh Châu Phi
BCH TƯ Ban chấp hành Trung ương
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CNTB Chủ nghĩa tư bản
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FCPA Luật chống hối lộ công chức nước ngoài
GD-ĐT Giáo dục đào tạo
HĐND Hội đồng nhân dân
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
NXB GD Nhà xuất bản giáo dục
OAS Công ước liên Châu Mỹ về chống tham nhũng
TBCN Tư bản chủ nghĩa
SGK Sách giáo khoa
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TAND Tòa án nhân dân
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VAT Thuế giá trị gia tăng
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện Kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ NHẬN
DIỆN VÀ THIÊT LẬP CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG
15
1.1. Quyền lực công cộng, sự tha hóa quyền lực công cộng và tham
nhũng
15
1.2- Các cách tiếp cận về tham nhũng trên thế giới 23
1.3. Tác hại của tham nhũng 39
CHƯƠNG 2: THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM - NHẬN DIỆN,
ĐẶC ĐIỂM NGUYÊN NHÂN VÀ VẤN DỀ ĐẶT RA
45
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tham nhũng ở Việt Nam 45
2.2. Nhận diện tham nhũng qua các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng
cộng sản Việt Nam
47
2.3. Nhận diện tham nhũng qua Luật phòng, chống tham nhũng và
Luật hình sự Việt Nam
50
2.4. Một số hình thức tham nhũng phổ biến ở Việt Nam hiện nay 53
2.5. Một số đánh giá về tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 107
2.6. Đặc điểm cơ bản của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 112
2.7. Nhấn mạnh một số nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam
CHƯƠNG 3: PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
133
3.1. Quyết tâm chính trị về chống tham nhũng của Đảng cộng sản
Việt Nam và Nhà nước Việt Nam
133
3.2. Những kết quả đạt được 142
3.3. Những hạn chế và những vấn đề đặt ra 146
3.4. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém 148
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
156
4.1. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên
thế giới.
156
4.2. Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
173
4.3. Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
180
KẾT LUẬN 206
TÀI LIỆU THAM KHẢO 209
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng bản thân nó là một căn bệnh khó trị của mọi xã hội có nhà
nước. Tham nhũng làm cho quyền lực công bị suy thoái, tê liệt, mất tác dụng
trong điều tiết các quan hệ xã hội; hệ thống quyền lực bị đẩy vào tình trạng hỗn
loạn, vô chính phủ, bị chi phối hoàn toàn bởi sự tranh giành, co kéo, chia chác
tài sản quốc gia giữa vô số lợi ích bất hợp pháp của các nhóm và cá nhân; gây
mất niềm tin của nhân dân vào tính chính đáng ban đầu của nhà nước. Tham
nhũng là một trong những nguyên nhân chính tạo ra sự phản kháng của nhân
dân làm cho nhiều nhiều quốc gia, nhiều triều đại bị sụp đổ.
Tham nhũng được coi là sản phẩm của sự tha hoá quyền lực nhà nước, là
tình huống có vấn đề trong sử dụng quyền lực, là sự đối lập - kẻ thù của dân
chủ. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh chống tham nhũng luôn gắn liền với việc
đảm bảo mục đích sử dụng quyền lực công theo đúng nghĩa là sự phục vụ chứ
không phải đòi hỏi. Chống tham nhũng ở các nước được coi là một trong
những tiêu chí hàng đầu để đi đến nắm giữ, củng cố và duy trì quyền lực của
các đảng chính trị. Bất kể đảng chính trị nào khi tranh cử cũng phải tuyên bố
trong cương lĩnh tranh cử của mình là bài trừ tham nhũng. Nếu đảng cầm
quyền còn để tình trạng tham nhũng xảy ra, thì nguy cơ mất quyền là rất cao
do phải chịu nhiều áp lực cả về chính trị lẫn xã hội.
Ở các nước phương Tây, cách chống tham nhũng phổ biến là xây dựng
một cơ chế kiểm soát quyền lực đủ sức ngăn chặn các hành vi lạm quyền,
chuyên quyền, sử dụng quyền lực vì mụch đích tối đa hoá lợi ích của bản thân.
Các cơ chế kiểm soát quyền lực đó chính là nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước (tam quyền phân lập, kiềm chế đối trọng), cạnh tranh chính trị giữa các
đảng và sự tồn tại của các đảng đối lập trung thành, sự phản biện xã hội đối với
việc thực thi quyền lực nhà nước của các nhóm lợi ích…Đó cũng chính là quá
trình xã hội hoá, dân chủ hoá hoạt động tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, tham nhũng ngày càng lộng hành, một bộ phận
không nhỏ quyền lực nhà nước dường như được sử dụng nhằm tối đa hoá lợi
ích của các quan chức thoái hoá, biến chất. Hậu quả do tham nhũng gây ra có
thể rất dễ nhận thấy, thế nhưng việc xác định, nhận diện tham nhũng lại là vấn
đề rất khó khăn. Chính sự gia tăng của tình trạng tham nhũng làm cho nhân
dân cảm thấy mình uỷ quyền nhưng đã bị mất quyền.
Có thể nói, chúng ta chưa tạo ra được chiếc phanh an toàn cho sự vận
hành của bánh xe quyền lực. Cơ chế kiểm soát quyền lực còn hết sức lỏng lẻo,
chức năng giám sát tối cao của Quốc hội chưa thực sự hiệu quả trong việc phát
hiện và đấu tranh với nạn tham nhũng, các cơ quan tư pháp hoạt động chưa
được độc lập, thẩm quyền còn nhiều hạn chế, vai trò giám sát của MTTQ và
các tổ chức thành viên đối với việc thực thi quyền lực của các cơ quan và công
chức nhà nước không phát huy được, các quy định pháp luật về quyền làm chủ
của nhân dân mới chỉ dừng lại ở các quy định có tính nguyên tắc chứ chưa phải
là các chế định cụ thể, các thiết chế làm chủ của nhân dân còn hình thức và rất
khó thực hiện,… Chính vì vậy, trước sự tác động của nền kinh tế đang chuyển
đổi sang thị trường, tham nhũng có cơ hội bùng phát trở thành những hành
động mang tính phổ biến.
Từ trước đến nay, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được hậu quả do
tham nhũng gây ra và xác định nó là một trong bốn nguy cơ có khả năng gây
đổ vỡ chế độ. Để đối phó với nó, Đảng và nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp
phòng, chống thế nhưng hiệu quả của “liều thuốc kháng sinh” chưa chế ngự
được loại “vi rút” này, dường như nó càng ngày càng mạnh lên và đang gây
những hậu quả nặng nền cho xã hội.
Sở dĩ, căn bệnh tham nhũng tác oai tác quái là do chúng ta, dù nỗ lực rất
nhiều, vẫn chưa hiểu đầy đủ về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, nội dung và các
hình thức biểu hiện của các hành vi tham nhũng, chưa có các giải pháp phòng,
chống hiệu quả. Vì vậy, các biện pháp, giải pháp dù rất nhiều với quyết tâm cao
của cộng đồng quốc tế và trong nước, tham nhũng vẫn chưa được kiềm chế và
đẩy lùi. Việc nhận diện tham nhũng ở nước ta được ví như câu chuyện thầy bói
xem voi ngày xưa. Mỗi người, mỗi ngành nhận diện về tham nhũng ở những khía
cạnh khác nhau với những mức độ khác nhau chứ chưa thấy được tổng thể và các
mối quan hệ nảy sinh bên trong các hành vi tham nhũng. Tham nhũng là nguy cơ
như thế nào, đã được nhiều ý kiến, nhiều nhận định ở nhiều diễn đàn và công luận
đề cập đến. Tuy vậy, không thể nói rằng chúng ta đã biết đầy đủ về tính chất và
mức độ nguy hại do các hành vi ấy gây ra cho Nhà nước, cho xã hội. Những nhận
thức chung chung rằng “Tham nhũng là quốc nạn”, là “kẻ thù số một” là “giặc nội
xâm” v.v..không đủ để đẩy những cuộc đấu tranh chống tham nhũng tới một
ngưỡng cần thiết và hiệu quả. Do không nhận diện đầy đủ các hành vi tham
nhũng nên đang tồn tại một tình trạng khá phổ biến là, ai cũng nghĩ là tham nhũng
ở chỗ khác chứ không nghĩ là tại cơ sở mình, việc đấu tranh chống tham nhũng có
những yếu kém là yếu kém của người khác, của cấp khác chứ không phải của
mình, ở đơn vị mình, v.v. Cứ như vậy, tham nhũng là một “quốc nạn” nhưng chỉ
nghe mà không thấy. Đây là một trong những lý do làm cho hầu hết các vụ việc
tham nhũng đều do nhân dân và báo chí phanh phui ra. Không một tổ chức đảng
nào phát hiện được tham nhũng.
Các biện pháp đấu tranh với tham nhũng của chúng ta đã đến lúc cần
được xem xét lại một cách nghiêm túc. Các biện pháp mang tính thể chế và chế
tài tưởng như hiệu quả thế nhưng chưa đẩy lùi được tình trạng tham nhũng, các
biện pháp mang tính giáo dục (tự phê bình và phê bình, giáo dục đạo đức tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm gương...) dường như đã bị mất tác dụng. Do vậy, việc
nghiên cứu, đổi mới và tìm kiếm các biện pháp chống tham nhũng hiệu quả
hơn đang là thách thức lớn đối với Đảng, Nhà nước và xã hội.
Chính vì vậy, nghiên cứu, nhận diện tham nhũng và giải pháp phòng,
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay là một việc làm cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới
Có thể nói, việc nghiên cứu về tham nhũng không chỉ có tính chất quốc
gia, mà còn mang tính khu vực và quốc tế. Các cuốn sách nghiên cứu về vấn
đề này ngày càng nhiều với những nội dung rất phong phú, cung cấp những
cách tiếp cận, khám phá bản chất và hậu quả của tham nhũng, giới thiệu các
biện pháp, mô hình chống tham nhũng hiệu quả mà các quốc gia đạt được
trong việc chống tham nhũng. Đã có những cuốn sách chuyên khảo nổi tiếng
về vấn đề này như: Corruption: its nature, causes and functions (Tham nhũng:
bản chất, nguyên nhân và tác động của nó) năm 1990 của Alatas H.S; Why
worry about corruption? (Tại sao lo lắng về tham nhũng) năm 1997 và The
effects of Corruption on Growth, Investment and Government Expenditure
(Hậu quả của tham nhũng đối với tăng trưởng, đầu tư và tiêu dùng của chính
phủ) năm 1996 của Mouro Paolo; Political Corruption in Europe and Latin
America (Tham nhũng chính trị ở Châu Âu và Mỹ la tinh) năm 1996 của
Eduardo Posada; Corruption Around the World: Causes, Consequences, Scope
and Cures (Tham nhũng trên thế giới: nguyên nhân, hậu quả, phạm vi và cách
xử lý) năm 1998 của Tanzi V do Ngân hàng thế giới ấn hành; Curbing
corruption: Toward a model for building national integrity (Kiềm chế tham
nhũng - Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia) năm 1999
của Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr J. (Cuốn sách này đã được Nxb Chính trị
quốc gia dịch và ấn hành năm 2002); Power of Institution (Quyền lực của các
thể chế) của A.Mc Intyre; “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi”
năm 1998 của Ngân hàng thế giới; Tham nhũng – tệ nạn của mọi tệ nạn (bản
dịch của Viện thông tin KHXH, 1997); Chống tham nhũng ở Đông Á, giải
pháp từ khu vực kinh tế tư nhân của Jean Francois Arvis và Ronald
E.Berenbeim do Ngân hàng thế giới ấn hành năm 2004 (bản dịch tiếng Việt);
Đương đầu với tham nhũng ở Châu Á Vinay Bhargava & Emil Bolongaita do
Ngân hàng thế giới ấn hành năm 2005…
Các công trình trên đã đưa ra rất nhiều quan niệm và định nghĩa về tham
nhũng. Có cách tiếp cận từ lĩnh vực kinh tế học, chính trị học, khoa học quản
lý, luật học, xã hội học và tội phạm học…với những phân tích, đánh giá sâu
sắc nhằm lý giải cho nguồn gốc, bản chất, nội dung, hình thức biểu hiện, các
mánh khóe tham nhũng và biện pháp phòng, chống tham nhũng. Các công
trình này cũng đã chỉ ra rất cụ thể các dấu hiệu của hành vi tham nhũng, tổng
kết các bài học kinh nghiệm, rút ra nguyên nhân thành công và thất bại của các
quốc gia trong việc đấu tranh với tham nhũng, từ đó đưa ra chiến lược tổng thể
chống tham nhũng.
Các công trình cũng cho rằng cải cách kinh tế là cần nhưng chưa đủ để
kìm hãm nạn tham nhũng. Mô hình chống tham nhũng hiệu quả được nhiều
công trình đề cập tới và phân tích đó là Hồng Kông và Singapo với sự hoạt
động hết sức hiệu quả của Uỷ ban độc lập chống tham nhũng và những hình
phạt nghiêm khắc đối với các hành vi tham nhũng. Nhiều công trình cũng đề
cập đến các cơ chế kiềm chế chính thức để giữ cho nhà nước và các viên chức
của nó có tinh thần trách nhiệm về những hoạt động của họ. Để tồn tại lâu dài
và được tin cậy, những cơ chế này phải được cột chặt vào những thể chế cốt lõi
của nhà nước. Hai cơ chế kiềm chế chính thức được nhiều công trình đề cập
đến đó là một nền tư pháp độc lập mạnh mẽ và sự phân lập các quyền lực, để
các nhánh quyền lực có thể kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Ngoài ra, các công
trình còn đề cập đến những giải pháp khác như: Thu hút xã hội công dân tham
gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tự do báo chí và vai trò của các
phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao tính trách nhiệm và đạo đức trong
khu vực công cộng, công khai hoá các quyết định của Chính phủ, xây dựng chế
độ kiểm toán độc lập và minh bạch hoá nền tài chính,...Đây chính là những giải
pháp đã giúp các nước phương Tây và một số nước Châu Á phát triển sử dụng
và kiềm chế hiệu quả nạn tham nhũng ở nước mình.
Từ những công trình nghiên cứu trên, người ta có thể thấy được những
quan niệm hiện đại về tham nhũng nói chung, nhận diện tham nhũng và các
biện pháp chống tham nhũng nói riêng ở các nước phương Tây. Đó cũng chính
là cơ sở chi phối quan điểm của họ trong việc nhìn nhận và đánh giá về tình
hình tham nhũng của các quốc gia khác trên thế giới.
Ở Trung Quốc, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng.
Các công trình này nêu lên hiện tượng tham nhũng ở Trung Quốc, phản ánh quá
trình đấu tranh và các bài học kinh nghiệm rút ra qua các vụ án tham nhũng.
Những thành công bước đầu của Trung Quốc trong cuộc chiến chống tham nhũng
là do vai trò lãnh đạo cũng như quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Để cuộc chiến chống tham nhũng hiệu quả phải phát huy vai trò của các cơ
quan chống tham nhũng như Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng, công an, viện kiểm
sát và toà án vào công cuộc chống tham nhũng.
Các công trình đề cập đến vấn đề này có thể kể đến: “Đối mặt với tham
nhũng” của Lu Jing, “Sự thất thoát tài sản quốc doanh ở Trung Quốc” của Du
Dịch Phong; “Đặc điểm và xu hướng tham nhũng hiện nay: lựa chọn và chính
sách” của Wang Huining; “Những năm 90: bộ mặt đang thay đổi của nạn tham
nhũng ở Trung Quốc” (Bản dịch của Ngô Thị Mai Diên),...
Ở Việt Nam, trong 4 nguy cơ mà Văn kiện Đại hội VIII, IX, X đưa ra thì
tham nhũng được coi là nguy cơ của mọi nguy cơ vì nó đang lan rộng, đe doạ trực
tiếp đến sự lãnh đạo của Đảng, giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ XHCN. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu vấn đề tham nhũng và
chống tham nhũng đang được coi là vấn đề mang tính “thời sự”, cấp thiết đang
đặt ra và cần phải giải quyết.
Trước đây, các nghiên cứu về tham nhũng và chống tham nhũng chủ yếu
được đề cập ở các góc độ triết học và luật học. Đến nay, nó còn được nghiên
cứu cả ở góc độ chính trị học, kinh tế học, xã hội học, khoa học quản lý và xây
dựng Đảng, thậm chí còn mang tính liên ngành.
Có thể kể đến một số công trình sau:
- “Nhận diện tham nhũng và biện pháp đấu tranh” của Vũ Xuân Kiều,
Tạp chí Cộng sản, 1996, số 20 , tr 32 – 35;
- “Tham nhũng: Nhận diện từ các khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý
mới của việc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta” của Đào Trí Úc, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 9/1996, tr 3-10;
- “Chống tham nhũng - thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Văn Bảo,
Tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/1998, tr 33-38;
- “Mấy vấn đề về chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của Phạm
Đức Thành, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 59 (2002), tr 3;
- “Mấy vấn đề về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta
hiện nay” của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 57 (2002), tr 48;
- “Tham nhũng” của Đặng Xuân Thanh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số
315 (8/2004), tr 13-20 và số 316 (9/2004), tr 16-25…
Ở phạm vi và quy mô lớn hơn cũng có một số công trình chuyên khảo
về tham nhũng và chống tham nhũng ở Việt Nam như: cuốn “Khắc phục
những sơ hở trong cơ chế quản lý kinh tế - một số biện pháp chủ động ngăn
chặn tham nhũng” của Phạm Quang Lê, Nxb Sự thật, H, 1991; cuốn “Việt
Nam đấu tranh với tham nhũng” của Ngân hàng thế giới năm 2002; “Tham
nhũng và chống tham nhũng: Tổng luận phân tích” của Viện nghiên cứu MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, 1996. Bên cạnh đó cũng đã có công trình hệ
thống hoá các luật chống tham nhũng trên thế giới như để giới thiệu những bài
học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây dựng cơ sở
pháp lý phòng, chống tham nhũng như cuốn Pháp luật chống tham nhũng của
các nước trên thế giới của Nguyễn Văn Kim và Nguyên Huy Hoàng chủ biên
(2003), dự án SIDA của Thụy Điển tài trợ cho Việt Nam nghiên cứu về tham
nhũng và các biện pháp chống tham nhũng ở Việt Nam...
Cuốn Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới của GS TS Nguyễn
Xuân Yêm, PGS TS Nguyễn Hòa Bình, TS Bùi Minh Thanh đồng chủ biên, do
Nxb. Công an nhân dân ấn hành năm 2007, là một công trình khá đồ sộ và công
phu nghiên cứu về tham nhũng dưới góc độ tội phạm học. Trong công trình này,
tham nhũng được coi là một loại tội phạm liên quan đến chức vụ và tội phạm kinh
tế. Các tác giả đã phân tích chi tiết các hành vi cấu thành tội phạm tham nhũng và
cách nhận dạng các tội phạm đó. Ngoài những kiến thức chung về tham nhũng,
cuốn sách còn cung cấp những kỹ năng điều tra, đấu tranh với loại tội phạm nguy
hiểm này.
Vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng còn được đề cập đến như một
vấn đề liên quan trong nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng Đảng, xây
dựng nhà nước pháp quyền, đổi mới hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy
dân chủ XHCN, cải cách thể chế kinh tế... Chẳng hạn, Giáo trình “Xử lý tình
huống chính trị” của Viện Khoa học chính trị đề cập đến tham nhũng như là
một tình huống chính trị có vấn đề; Đề tài khoa học cấp bộ “Dân chủ trong nội
bộ Đảng cộng sản” do PGS. TSKH Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm đề cập đến
tham nhũng như là một trong những lực cản chính trong quá trình thực hiện
dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội; Đề tài khoa học độc lập cấp nhà
nước “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính
trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay” do GS.TS
Hoàng Chí Bảo làm chủ nhiệm năm 2000 – 2002 đề cập đến tham nhũng như
là một trong những nguyên nhân chính gây ra các điểm nóng chính trị - xã hội
và tình trạng mất dân chủ ở cơ sở; Đề tài khoa học cấp bộ “Một số nhân tố chủ
yếu có khả năng gây mất ổn định chính trị ở nước ta hiện nay” do TS Nguyên
Văn Vĩnh chủ nhiệm đề cấp đến tham nhũng như là một nguy cơ sống còn đối
với chế độ; Đề tài khoa học cấp bộ “Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay
và những vấn đề rút ra trong công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng ta” do GS
Đậu Thế Biểu chủ nhiệm đề cập đến vấn đề tham nhũng như là một căn bệnh
dễ dẫn đến mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản...
Để khẳng định quyết tâm chính trị cũng như tạo cơ sở pháp lý cho việc
đấu tranh với tham nhũng, Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa
X) về phòng, chống tham nhũng. Nhà nước cũng đã nâng Pháp lệnh phòng,
chống tham nhũng năm 1998 lên thành Luật phòng, chống tham nhũng 2006
và ngay sau đó đã sửa đổi luật này (2007), bổ sung điều khoản thành lập các
Ban chống tham nhũng ở các địa phương do Chủ tịch UBND tỉnh đứng đầu.
Có thể thấy, việc nghiên cứu vấn đề tham nhũng dù trực tiếp hay gián
tiếp, từ các góc độ khác nhau trong những năm qua đã có những thành tựu
đáng ghi nhận:
+ Các công trình ngày càng làm rõ hơn nội dung, bản chất, hình thức và
các dấu hiệu của hành vi tham nhũng, chủ yếu từ khía cạnh luật học, chính trị
học, kinh tế học và tội phạm học.
+ Nhiều công trình đã khảo cứu các mô hình và cơ chế kiềm chế tham
nhũng ở nước ngoài về cả những thành công lẫn thất bại, từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình đấu tranh
với tham nhũng.
Các công trình cũng đã chỉ rõ những mặt hạn chế của Việt Nam trong
việc kiềm chế tham nhũng, đó là: chúng ta còn hiểu chưa đầy đủ về bản chất
của tham nhũng, chưa nhận diện đầy đủ các hành vi tham nhũng (chính vì vậy
mà nhiều lúc, nhiều nơi chúng ta đã hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự);
cơ chế phòng chống tham nhũng của chúng ta còn hình thức và kém hiệu quả,
các biện pháp đấu tranh với tham nhũng chưa đủ mạnh, thậm chí không mang
tính khả thi. Nhiều công trình đã thẳng thắn chỉ ra rằng, nguyên nhân chống
tham nhũng kém hiệu quả đó là do quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và
Nhà nước ta chưa cao, nặng về hô hào, khẩu hiệu, do vậy mà cuộc chiến chống
tham nhũng đã được bắt đầu từ rất sớm và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của
dư luận xã hội, nhưng số lượng các vụ tham nhũng ngày càng gia tăng, tính
chất ngày càng phức tạp, nhưng mức độ phát hiện và xử lý còn quá ít, chưa đạt
mức làm thay đổi cục diện cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Có thể nói, cuộc đấu tranh chống tham nhũng của chúng ta chưa đạt
được hiệu quả mong muốn, trước hết là do việc nhận diện chúng chưa rõ ràng;
thứ hai là do tổ chức phòng chống tham nhũng chưa tốt; thứ ba, hệ thống thực
thi quyền lực nhà nước chưa chặt chẽ, còn nhiều sơ hở, là mảnh đất màu mỡ
cho các hoạt động tham nhũng.
Nói tóm lại, việc nhận diện và kiềm chế tham nhũng ở nước ta phụ thuộc
lớn vào việc tổ chức và vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là phụ thuộc
vào vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức thực thi pháp luật phòng,
chống tham nhũng của Nhà nước.
+ Các công trình nêu trên cũng đã vạch ra những phương hướng cũng
như các giải pháp cả về dài hạn lẫn ngắn hạn để phòng, chống tham nhũng có
hiệu quả và thiết thực hơn, như:
- Thực hiện dân chủ thực sự trong nội bộ Đảng, thực hiện kê khai tài sản
đối với cán bộ, công chức, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách thủ tục hành
chính theo hướng đơn giản, thuận tiện những hiệu quả, tránh gây phiền hà cho
người dân, tăng tính độc lập của các cơ quan tư pháp, thành lập Uỷ ban chống
tham nhũng chuyên trách, khắc phục dần những sơ hở về mặt pháp lý, những
yếu kém trong quản lý nhà nước, cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ,
công chức, trừng trị nghiêm khắc các tội tham nhũng…
- Đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ
chức thành viên của nó, tạo cho nó cơ chế hoạt động độc lập để thực hiện tốt
chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với nhà nước.
- Cải cách thể chế kinh tế, khắc phục được những thất bại của cơ chế thị
trường, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tự do kinh doanh,
xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, cải cách hệ thống tài chính, ngân
hàng, hoạt động kế toán, kiểm toán theo hướng hiện đại hoá và minh bạch hoá.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về tham nhũng và đấu tranh chống
tham nhũng cũng còn một số hạn chế sau:
+ Chưa đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và cụ thể về các dấu hiệu của
tham nhũng, từ đó dẫn đến cách hiểu tham nhũng một cách chung chung. Đây
là một trong những nguyên nhân làm bỏ lọt tội phạm tham nhũng. Bên cạnh
đó, còn quá ít các công trình nghiên cứu tham nhũng trên cơ sở những tập quán