Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu thực trạng sốt rét và đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị
PREMIUM
Số trang
131
Kích thước
2.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1545

Nghiên cứu thực trạng sốt rét và đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC

HOÀNG HÀ

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỐT RÉT

VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI MỘT

SỐ XÃ BIÊN GIỚI

CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HUẾ - NĂM 2013

2

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC

HOÀNG HÀ

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỐT RÉT

VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI MỘT

SỐ XÃ BIÊN GIỚI

CỦA HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG

Mã số: 62 77 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

1. PGS TS NGUYỄN VĂN TẬP

2. PGS TS LÊ XUÂN HÙNG

3

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh sốt rét hiện nay vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ lớn trên thế giới nói

chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới khoảng

40% dân số thế giới hiện nay đang sống trong vùng có nguy cơ mắc sốt rét. Hàng

năm có khoảng 350-500 triệu người mắc sốt rét và hơn 1 triệu người chết do sốt rét

[30]. Đến năm 2010 ước tính trên thế giới có 216 triệu người mắc sốt rét và 655.000

người chết do sốt rét [122].

Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu.

Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của

Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn

Độ, Sri Lanka, Pakistan. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái Lan -

Campuchia, Thái Lan-Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp [30].

Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo hàng năm của Chương trình phòng chống

sốt rét Quốc gia nhiều tỉnh có mức độ lưu hành sốt rét cao chủ yếu thuộc khu vực

Miền Trung - Tây Nguyên hầu hết các tỉnh có các xã, huyện có đường biên giới với

Lào hoặc Campuchia đều có tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét cao hơn so với các địa

phương khác trong toàn quốc [28]. Bệnh sốt rét tuy đã giảm nhưng có nguy cơ quay

trở lại lớn; đối tượng dễ mắc bệnh là những người sống ở vùng sâu, vùng xa và đặc

biệt là những người dân sống ở vùng biên giới giữa Việt Nam với Lào và

Campuchia. Tại các vùng này nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc

nhiễm bệnh sốt rét chủ yếu thông qua giao lưu tự do nên rất khó khăn trong việc

giám sát, phát hiện, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét [42].

Quảng Trị là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tình hình sốt

rét của tỉnh tuy đã được cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng tỷ lệ mắc và

nguy cơ sốt rét vẫn còn cao. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét/1.000 dân;

tỷ lệ tử vong do sốt rét/100.000 dân vẫn nằm trong số 6 tỉnh có tỷ lệ mắc sốt rét cao

nhất trong toàn quốc [74]. Tình hình dịch tễ sốt rét vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng

Trị (Việt Nam) và Savanakhet (Lào) thường diễn biến phức tạ

4

. Đặc biệt ở 12 xã thuộc vùng

Lìa của huyện Hướng Hoá giáp biên giới với Lào có tỷ lệ mắc sốt rét cao, có nhiều

ổ sốt rét trọng điểm như: xã Xy, xã Thanh [13], [18].

Hướng Hoá là một huyện trọng điểm sốt rét của tỉnh Quảng Trị , toàn bộ 22 xã

đều nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng, có đường biên giới dài 156 km giáp với

tỉnh Savanakhet (Lào). Theo báo cáo của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị

số bệnh nhân sốt rét hàng năm của huyện Hướng Hoá thường chiếm trên 60% tổng

số bệnh nhân sốt rét của toàn tỉnh và số ký sinh trùng sốt rét luôn trên 50% tổng số

ký sinh trùng được phát hiện trong toàn tỉnh. Trong đó số bệnh nhân sốt rét được

phát hiện từ các xã biên giới luôn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số bệnh nhân sốt rét

toàn huyện [41].

Từ trước đến nay các nghiên cứu về bệnh sốt rét ở nước ta và ngay tại tỉnh

Quảng Trị vẫn tập trung vào dịch tễ sốt rét, phòng chống véc tơ [13], [14], kháng

thuốc sốt rét [42], [58], kiến thức-thái độ-thực hành [17], [41], xây dựng mạng lưới

[12] và cũng đã đạt được nhiều kết quả về phòng chống bệnh sốt rét nhưng vẫn còn

nhiều ổ bệnh dai dẵng chưa được giải quyết triệt để do chưa có một nghiên cứu nào

về mô hình về quản lý, giám sát, phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét ngay tại

hộ gia đình ở vùng biên giới.

Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia

đình ở vùng biên giới với 2 mục tiêu sau:

1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt rét và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại

một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.

2. Đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới.

Điểm mới của nghiên cứu này là:

Xây dựng mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới tỉnh

Quảng Trị với mục tiêu phát hiện, điều trị sớm và quản lý ca bệnh sốt rét tại nhà.

Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nước Việt-Lào.

Phát hiện thêm về tác nhân gây bệnh sốt rét (KSTSR) mới ở tỉnh Quảng Trị.

5

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH SỐT RÉT VÙNG BIÊN GIỚI

1.1.1. Tình hình mắc và chết do sốt rét trên thế giới

Theo số liệu thống kê của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đến năm 2009,

bệnh SR vẫn lưu hành ở 108 quốc gia. Ước tính có khoảng 225 triệu người mắc và

781 nghìn người chết do sốt rét (SR), riêng châu Phi chiếm 91%; Đông Nam Á 6%

[115]. Châu Mỹ có khoảng 1 triệu người mắc và khoảng 1 nghìn người chết. Khu

vực Đông Nam Á sốt rét lưu hành ở hầu hết các nước với 88% dân số trong tổng số

1.320 triệu người. Sốt rét trầm trọng hơn ở các nước tiểu vùng sông Mê Kông như

Trung Quốc, Lào, Myanmar, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [30]; có khoảng 24

triệu người mắc và khoảng 40 nghìn người chết, tính trung bình có 3.000 trẻ chết do

sốt rét ở Châu Phi mỗi năm, ước tính 125 trẻ chết trong 1 giờ và 2 đứa trẻ chết trong

vòng 1 phút. Khu vực Tây Thái Bình Dương có khoảng 2 triệu người mắc và

khoảng 3 nghìn người chết do sốt rét [30].

Mặc dù bệnh sốt rét đã được thanh toán ở nhiều nơi trên thế giới như Châu Âu,

Bắc Mỹ, một số nước Bắc Á và bệnh SR cũng đã giảm nhiều ở một số nước trong

đó có cả Việt Nam. Tuy vậy cho đến năm 2010 vẫn có 216 triệu người mắc sốt rét,

655.000 người chết do bệnh sốt rét, đặc biệt ở châu Phi (91%), Đông Nam Á (6%),

Địa Trung Hải (3%), khoảng 86% trẻ em dưới 5 tuổi chết do sốt rét [115]. Ở các

nước Châu Phi như Kenya, Uganda, Tanzania... bệnh sốt rét luôn ở mức cao [88].

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sốt rét ở các dân tộc thiểu số vùng biên giới

Vấn đề sốt rét biên giới đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu.

Đã có nhiều vụ dịch sốt rét được ghi nhận ở các vùng biên giới như ở các huyện của

Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nước Ấn

Độ, Sri Lanka, Pakistan [30]. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nước Thái

Lan - Campuchia, Thái Lan - Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp, tỷ lệ mắc

sốt rét trong nhóm dân di cư và gia tăng tỷ lệ P. falciparum kháng thuốc khi họ trở

6

lại Campuchia để điều trị [112] và cũng đã có nhiều vụ dịch sốt rét xảy ra. Những

nghiên cứu về tình hình sốt rét của vùng biên giới giữa Thái Lan và Myanmar cho

thấy tỷ lệ mắc sốt rét cao ở những người dân di cư đến làm việc ở vùng biên giới

giữa 2 nước này [112] đồng thời sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng đối với 39,6%

số hộ gia đình được điều tra, người dân ở vùng này còn nghèo nên còn khó khăn,

thiếu thốn các nguồn phòng chống SR vì vậy người dân còn có nguy cơ mắc sốt rét

cao. Ở Thái Lan, sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng ở biên giới [30]. Nghiên cứu

cũng cho thấy nơi ở của người dân ở trong rừng có nguy cơ mắc sốt rét cao 6,29

lần, không ở trong nhà trong vòng 7 ngày trước thời điểm xét nghiệm máu có nguy

cơ mắc sốt rét cao 4,34 lần.

Một nghiên cứu của Xu J (1996) về sốt rét biên giới ở Trung Quốc cho thấy

vùng biên giới của tỉnh Vân Nam với Việt Nam, Lào và Myanmar có một số lượng

lớn bệnh nhân sốt rét ngoại lai là người dân tộc thiểu số với tỷ một tỷ lệ lớn bệnh

nhân nhiễm P. faciparum là do kết quả của việc di biến động dân cư đi lại làm ăn

giữa các tỉnh. Các kết quả nghiên cứu cho thấy còn tồn tại rất nhiều khó khăn, phức

tạp trong vấn đề quản lý sốt rét vùng biên giới do thói quen, tập quán lao động, sinh

hoạt, người dân giao lưu qua lại biên giới nhiều. Giao thông đi lại tới các vùng biên

giới còn nhiều khó khăn nên việc tiếp cận với các dịch vụ y tế còn rất hạn chế và sự

khác nhau về việc áp dụng các biện pháp phòng chống trong Chương trình PCSR

giữa các nước có đường biên giới chung.

Những kết quả và khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa

các nước trên thế giới hiện nay như sau:

Tình hình người dân nhập cư và tỷ lệ mắc SR do qua lại vùng biên giới vẫn

không giảm do nhu cầu làm ăn kinh tế, buôn bán hàng lậu qua biên giới [122]. Vùng

biên giới lại là vùng rừng núi, sinh địa cảnh thuận lợi cho bệnh SR phát triển [30].

Việc phối hợp điều tra và phòng chống sốt rét (PCSR) tại vùng biên giới là rất

cần thiết [30] tuy nhiên hiện nay việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới giữa các

nước gặp phải khó khăn do nhiều nguyên nhân: thủ tục xuất nhập cảnh để thực hiện

các hoạt động chuyên môn về y tế; chính sách thực hiện các chương trình y tế,

mạng lưới y tế khác nhau ở mỗi nước; vấn đề kinh phí chi trả cho các hoạt động y tế

7

ở nước khác... và nhiều khó khăn về chính trị, an ninh biên giới... đã làm cho việc

phối hợp điều tra, đặc biệt việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới gần

như không thể thực hiện được. Việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới

giữa các nước bị thất bại với các lý do nêu trên.

Vì vậy các nghiên cứu về sốt rét tại vùng biên giới phần lớn chỉ thực hiện ở

một một phía biên giới, các báo cáo cũng chỉ ghi nhận ở một phía và một số ít sốt

rét nhập cư bên kia biên giới sang mà họ ghi nhận được.

Từ trước đến nay chưa có một mô hình hợp tác phòng chống sốt rét tại vùng

biên giới nào được thực hiện. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng

biên giới của nghiên cứu này là mới, nó bao gồm nội dung phối hợp phòng chống

sốt rét cả 2 bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).

1.1.3. Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Việt Nam

Việt Nam được đánh giá là nước đang áp dụng và duy trì các biện pháp PCSR

một cách hiệu quả.

Bảng 1.1. Tình hình sốt rét tại Việt Nam trong 5 năm từ 2006-2010 [74].

Chỉ số 2006 2007 2008 2009 2010

% giảm

2006/2010

Số BNSR 91635 70910 60547 60867 54296 - 40,75

Tỷ lệ mắc

SR/1000

1,08 0,83 0,70 0,69 0,62 - 42,59

Số KSTSR 22637 16389 11355 16130 17515 - 22,63

Tỷ lệ

KSTSR/1000

0,27 0,19 0,13 0,18 0,20 - 25,93

Số vụ dịch SR 1 1 1 0 1

Số chết SR 41 20 25 27 21 - 48,78

Tỷ lệ chết

SR/100.000

0,05 0,02 0,03 0,03 0,02 - 60,00

Kết quả thực hiện đến năm 2010, theo báo cáo của Dự án quốc gia PCSR như

sau. Tỷ lệ tử vong do SR đạt 0,02/100.000 dân, giảm 60% so với năm 2006. Năm

8

2010 có 21 người chết do SR so với 41 người chế 48,7%); Số

người chết do SR từ năm 2006-2009 giảm không ổn định. Tỷ lệ mắ

), giảm 42,6% so với năm 2006 [74].

Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Miền Trung - Tây Nguyên từ 2006-2010.

So sánh 2010 với 2006 giữa miền Trung và Tây Nguyên thấy các chỉ số sốt rét

đều giảm, trong đó BNSR ở Tây Nguyên (-59,15%) giảm nhanh hơn miền Trung

(giảm 29,07%); Tử vong sốt rét tại Tây Nguyên (2 trường hợp), miền Trung (6

trường hợp); tỷ lệ KSTSR ở Tây nguyên giảm 53%, miền Trung tăng 5,11% [67].

Tình hình mắc và chết do sốt rét tại tỉnh Quảng Trị:

Xu hướng diễn biến mắc và chết do sốt rét ở Quảng Trị tương tự ở khu vực

Miền Trung - Tây Nguyên. Số mắc sốt rét hàng năm từ 2006-2007 giảm chậm, năm

2009 có xu hướng tăng trở lại, chết do sốt rét không giảm.

Tình trạng người giao lưu với vùng sốt rét ngày một nhiều, riêng tỉnh Quảng

Trị còn có đặc thù riêng khác biệt so với các tỉnh trong toàn quốc và khu vực đó là

dọc theo đường biên giới của huyện Hướng Hoá và 2 huyện Sê Pôn, Nòng của tỉnh

Savannakhet (CHDCND Lào) có rất nhiều bản của cả 2 bên ở rất gần nhau, giao lưu

qua lại để buôn bán thường xuyên, nhiều người mắc sốt rét do qua lại biên giới,

hàng trăm BNSR từ Lào sang điều trị tại các xã biên giới của huyện Hướng Hoá.

1.1.4. Tình hình nghiên cứu và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới Việt Nam

Việt Nam hiện nay có 25 tỉnh có biên giới đất liền với 3 nước là Trung Quốc,

Lào và Campuchia. Hàng năm, số bệnh nhân mắc và chết do sốt rét tại các tỉnh có

biên giới đều cao hơn so với các tỉnh khác trong toàn quốc, trong đó tỷ lệ mắc sốt

rét ở các tỉnh giáp Campuchia là cao, sau đó đến các tỉnh giáp Lào [28]. Theo số

liệu thống kê năm 2007 của chương trình Quốc gia PCSR cho thấy số BNSR của

các tỉnh biên giới tỷ lệ 63,7% tổng số BNSR của toàn quốc (45.191/70.910). Số

bệnh nhân chết do sốt rét ở các tỉnh này khoảng 70% tổng số chết do sốt rét toàn

quốc (14/20).

Một nghiên cứu của Lê Xuân Hùng (2007) về thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng

và biện pháp can thiệp sốt rét ở biên giới Việt Nam từ năm 2002 đến 2006 cho thấy

9

tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm ở các tỉnh biên giới cao hơn so với các tỉnh không có

biên giới và so với cả nước, tỷ lệ hiểu biết của người dân về bệnh sốt rét chỉ từ 63,3

đến 64,5% và số hộ dân có đủ màn nằm còn thấp từ 57% đến 65% [28]. Tại các

vùng biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, giao lưu biên giới làm cho

nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc kiểm dịch biên giới tập trung

tại các cửa khẩu, nhưng sự giao lưu và nhiễm bệnh lại chủ yếu thông qua nhiều

đường tiểu ngạch dọc theo biên giới nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR.

Hoàng Hà (2004) trong một điều tra cắt ngang tại xã Thanh cho thấy tỷ lệ mắc

sốt rét chung là 4,0% [16] và một điều tra khác tại 2 xã biên giới của huyện Hướng

Hoá tỉnh Quảng Trị (2006) cho thấy tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét tại xã Xy

còn cao 10,8% [18]. Kết quả nghiên cứu của Đoàn Hạnh Nhân (2007) về thực trạng

sốt rét dai dẳng ở 2 huyện Hướng Hoá, Đakrông tỉnh Quảng Trị cho thấy bệnh sốt

rét lan truyền quanh năm đặc biệt tại các xã biên giới có lan truyền mạnh vào mùa

mưa và tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm luôn cao từ 17,1 - 38,7/1.000 dân [41], [42].

Những khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới của Việt Nam

với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia

Hầu hết dân có nguy cơ mắc sốt rét của nước ta, gần 16 triệu người (khoảng

40% dân số nguy cơ của cả nước) đều sống ở các vùng rừng núi và có biên giới với

Trung Quốc, Lào và Campuchia [28]. Cũng như trên thế giới, việc nghiên cứu và

phòng chống SR do qua lại biên giới, tại vùng biên giới ở Việt Nam cũng gặp phải

những khó khăn, thất bại nói trên. Các kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ dừng ở

mức báo cáo số liệu tỷ lệ mắc sốt rét của mỗi nước, không được nghiên cứu cùng

một thời điểm, hoàn cảnh và cùng một nội dung, phương pháp; không thực hiện

việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới, chính vì vậy tình hình sốt rét tại các vùng

này vẫn cứ diễn biến phức tạp và dai dẳng không giải quyết được. Việc phối hợp

phòng chống sốt rét vùng biên giới cũng thực hiện ở Việt Nam và trên thế giới.

Chính vì vậy để giải quyết vấn đề khó khăn trên, nghiên cứu này thực hiện mô

hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình, phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên

giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).

10

1.2. DỊCH TỄ HỌC BỆNH SỐT RÉT

1.2.1. Định nghĩa về bệnh sốt rét

Bệnh sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm, do ký sinh trùng Plasmodium của

người gây nên. Bệnh lây theo đường máu, do muỗi Anopheles truyền. Bệnh lưu

hành ở từng địa phương, trong những điều kiện thuận lợi có thể gây thành dịch.

1.2.2. Đặc điểm chung về sốt rét

Bệnh sốt rét lưu hành chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ký sinh

trùng sốt rét (KSTSR) có thể gây nên bệnh sốt rét cho con người ở tất cả các nhóm

tuổi và được truyền từ người này sang người khác qua trung gian truyền bệnh là

muỗi Anopheles (An) [31].

Có 4 loài KSTSR gây bệnh ở người gồm: Plasmodium falciparum;

Plasmodium vivax; Plasmodium malariae và Plasmodium ovale, trong số đó P.

falciparum và P. vivax là 2 loài thường gặp nhất. Từ năm 1965 ở Malaysia lần đầu

tiên đã phát hiện thêm loài thứ 5 là Plasmodium knowlesi lây từ khỉ sang người

[31], [118] sau đó cũng được phát hiện ở Thái Lan [99] và các khu rừng ở Đông

Nam Á [121]. Loài KSTSR này hiện nay là một vấn đê quan trọng cho sức khoẻ

cộng đồng [90], [118]. Như vậy cho đến nay đã khẳng định là có 5 loài KSTSR gây

bệnh ở người [120]

Bệnh sốt rét tồn tại và lan truyền được phải có hội tụ của 3 yếu tố: mầm bệnh

(ký sinh trùng); trung gian truyền bệnh (muỗi sốt rét); khối cảm thụ (con người). Sự

lan truyền bệnh sốt rét khác nhau về cường độ và mức độ thường xuyên phụ thuộc

vào các yếu tố tự nhiên tại chỗ như: lượng mưa, khu vực sinh sản của muỗi và sự có

mặt của loài muỗi truyền bệnh. Ngoài ra yếu tố xã hội cũng là một trong những yếu

tố có tác động quan trọng tới quá trình lan truyền bệnh. Có những vùng bệnh sốt rét

lưu hành quanh năm với số lượng BNSR được phát hiện tương đối ổn định các

tháng trong năm. Trong khi đó, ở một số vùng bệnh nhân mắc SR theo mùa và

thường vào mùa mưa [56].

11

1.2.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét

1.2.3.1. Chủng loài ký sinh trùng sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam

Tác nhân gây bệnh sốt rét hay còn gọi là mầm bệnh sốt rét được xác định là ký

sinh trùng Plasmodium [108]. Ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người gây bệnh sốt

rét, quan sát được bằng kính hiển vi [32], KSTSR lần đầu tiên được mô tả bởi

Laveran ở Angeria [35].

Loài KSTSR gây bệnh cho người là P. falciparum (Celli và Marchiafava ở

Italy báo cáo năm 1889-1890); P. vivax và P. malariae (1886 bởi Golgi ở Italy); P.

ovale (Stephens vào năm 1922) [55]. Trong số 4 loài KSTSR gây bệnh ở người thì

P. falciparum, P. vivax là 2 loài thường gặp nhất [35]. Hiện nay là 5 loài [120].

Ở Việt Nam có mặt cả 4 loài KSTSR, trong đó P. falciparum là loài có tỷ lệ

cao nhất 80-85%, sau đó đến P. vivax, loài P. malariae và P. ovale chỉ một tỷ lệ nhỏ

[40]; gần đây đã phát hiện thêm loài thứ 5 là Plasmodium knowlesi [22], [124].

Báo cáo về nhiễm Plasmodium knowlesi là loài ký sinh trùng sốt rét thứ 5 trên

thế giới lây từ khỉ sang người, đã có ở Đông Nam Á [72], [121], đặc biêt là ở

Malaysia [31], [36] và cũng được báo cáo ở Thái Lan [99]. Theo Indra Vythilingam

(taij Kuala Lumpur) thì ký sinh trùng sốt rét ở loài khỉ Malayan lần đầu tiên được

thông báo vào năm 1908 và nó được nhắc lại vào những năm thập kỷ 1960, sau khi

tình cờ phát hiện một loài ký sinh trùng ở khỉ không đuôi có thể truyền bệnh sang

người trong phòng thí nghiệm. Năm 2004, những ca sốt rét P.malariae phát hiện ở

Sarawak Malaysian Borneo được xác định là P.knowlesi bằng kỹ thuật sinh học

phân tử [31]. Đã có 4 bệnh nhân sốt rét bị tử vong do P.knowlesi [11]. Báo cáo gần

đây cho thấy Plasmodium knowlesi có ảnh hưởng đối với sức khoẻ cộng đồng [99].

Plasmodium knowlesi lần đầu tiên đã được phát hiện ở Ninh Thuận Việt Nam,

năm 2007, từ một nghiên cứu hợp tác song phương Việt - Bỉ [22] và lần thứ 2 năm

2010, đã được phát hiện ở vùng biên giới tỉnh Quảng Trị(Việt Nam) và

Savannakhet (Lào) [124]. Chu kỳ phát triển của KSTSR qua hai vật chủ. Giai đoạn

sinh sản hữu tính ở cơ thể muỗi (vật chủ chính) và giai đoạn sinh sản vô tính thực

hiện ở cơ thể người (vật chủ phụ) [72] gây ra những hiện tượng bệnh lý.

12

Gian đoạn sinh sản vô tính trong cơ thể người: Ký sinh trùng từ tuyến nước bọt

của muỗi vào máu người, lưu thông trong máu. Sau 30 phút toàn bộ thoa trùng xâm

nhập tế bào gan và phát triển ở đó tạo thành thể phân liệt, thể phân liệt vỡ ra giải

phóng ký sinh trùng non từ gan xâm nhập vào hồng cầu, lúc đầu là thể tư dưỡng

(sporozoites) rồi phát triển thành ký sinh trùng non, thể phân liệt (schizont) non rồi

thể phân liệt già, phá vỡ hồng cầu giải phóng ký sinh trùng non, lúc này tương ứng

với cơn sốt rét lâm sàng. Hầu hết những mảnh trùng này quay lại ký sinh trong hồng

cầu mới, một số biệt hoá thành thể hữu tính là giao bào đực và cái, những giao bào

này nếu được muỗi hút vào dạ dày sẽ tiếp tục phát triển trong cơ thể muỗi, nếu

không được muỗi hút, giao bào ở lại trong máu rồi bị tiêu đi.

Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người và muỗi

Nguồn. Bruce - Chwatt’s Esential Malariology. Trích từ t

).

Thời gian phát triển ký sinh trùng ở người từ khi muỗi đốt (giai đoạn ủ bệnh):

tuỳ thuộc vào loại ký sinh trùng sốt rét: P.falciparum từ 8-12 ngày; P.vivax, P.ovale

từ 11-21 ngày; P.malariae từ 21-42 ngày.

13

Người mang ký sinh trùng sốt rét có thể có biểu hiện những triệu chứng lâm

sàng điển hình: rét run, nóng, ra mồ hôi và khát nước. Cũng có thể biểu hiện bằng

những triệu chứng không điển hình: Sốt cao, nhức đầu, ớn lạnh, đau toàn thân,

nhưng cũng có thể không biểu hiện gì cả đó là trường hợp người mang ký sinh trùng

lạnh. Tuỳ theo loài ký sinh trùng sốt rét mang trong người mà bệnh nhân sốt mỗi

ngày một cơn (P.falciparum), hai ngày một cơn (P.vivax), ba ngày một cơn

(P.malariae) cơn sốt thường xuất hiện đúng giờ có tính chu kỳ rõ rệt, ăn khớp với

những đợt phát triển của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người.

Nếu không bị tái nhiễm hoặc không được điều trị ký sinh trùng có thể tồn tại

trong người tuỳ chủng loại: P.falciparum từ 1-2 năm; P.vivax (P.ovale) từ 1-5 năm;

P.malariae từ 3-50 năm.

Thêi gian ph¸t triÓn ký sinh trïng ë muçi phô thuéc vµo nhiÖt ®é: P.vivax

(P.malariae; P.ovale) >14,5 °C; P.falciparum >16 °C.

Ở Việt Nam, theo nhiều nghiên cứu trước năm 2000, tỷ lệ cao nhất là

P.falciparum 75-80%, P.vivax 20-25%, P.malariae 1-2%, tỷ lệ P.ovale rất hiếm.

Những năm gần đây, sự phân bố này có sự thay đổi, P.vivax tại địa phương khác, có

chiều hướng trội hơn P.falciparum [65].

Theo Triệu Nguyên Trung, Viện SR - KST - CT Qui Nhơn, cơ cấu KSTSR

khu vực miền Trung - Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010, loài P.falciparum 84,03%

(năm 2006) và 76,45% (năm 2010); loài P.vivax. 15,04% (năm 2006) và 21,98%

(năm 2010); P.malariae 0,01-0,2%; loại phối hợp: 0,93-1,36% [67].

1.2.3.2. Ký sinh trùng sốt rét ở tại tỉnh Quảng Trị

Tại tỉnh Quảng Trị từ năm 1989 - 2009, theo báo cáo kết quả soi lam giám sát

dịch tễ sốt rét, lam điều trị, lam nghiên cứu và phân tích bằng kỹ thuật PCR của

Viện SR - KST - CT Trung ương chỉ có 2 loài KSTSR là P.falciparum, P.vivax và

thể phối hợp 2 loại này [46], [57].

Đoàn Hạnh Nhân, Nông Thị Tiến, Hoàng Hà nghiên cứu tình hình sốt rét tỉnh

Quảng Trị trong 10 năm (1997-2006) nhận thấy chỉ số KST là 2,47‰; trong lúc đó

toàn quốc là 0,27‰ [41].

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!