Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nghiên cứu thị trường bán lẻ ở việt nam nói chung, ở tp hcm nói riêng thông qua hai định chế bán lẻ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
LỜI MỞ ĐẦU
-----o0o-----
Trong những năm gần đây thị trường bán lẻ ở Việt Nam luôn được xếp vào top
những thị trường tiềm năng nhất thế giới, thị trường bán lẻ nội địa vốn đã sáng giá lại càng
trở nên hấp dẫn hơn. Các thương hiệu bán lẻ quốc tế xuất hiện ngày càng nhiều, đồng thời
các kế hoạch mở rộng địa bàn hoạt động của các nhà thương mại trong và ngoài nước liên
tiếp được công bố. Điều này càng tạo sự phân hóa giữa các hình thức phân phối hàng hóa:
truyền thống và hiện đại.
Sau hơn một thập kỷ phát triển, bất chấp tỷ trọng trong tổng doanh thu bán lẻ còn
thấp, siêu thị vẫn là nỗi ám ảnh đối với các chợ truyền thống, nhất là ở khu vực đô thị, vì tốc
độ phát triển của chúng. Trên thực tế, các siêu thị đang ngày càng chăm chút hơn về sản
phẩm, dịch vụ, ngay cả với khâu bán thực phẩm tươi sống. Điều này cho thấy siêu thị không
chỉ mong muốn thu hút người đi mua sắm hàng tuần mà còn cả những người đi chợ hàng
ngày.
Trong khi đó hoạt động kinh doanh ở chợ đang ngày càng chịu một sức ép nặng nề
hơn, tuy sức mua của người tiêu dùng tăng nhưng doanh số của kênh phân phối ở chợ lại
giảm mạnh. Một vấn đề lớn cần đặt ra là mạng lưới chợ từ nhiều năm qua đã phát triển khá
sâu rộng và văn hóa chợ đã trở nên hết sức gần gũi, ăn sâu vào đời sống văn hóa, tập quán
tiêu dùng của người dân, chưa kể nếu biết khai thác, chợ còn là “khẩu vị lạ, độc đáo” đối với
khách du lịch quốc tế.
Vậy trong cuộc chiến giữa chợ truyền thống và siêu thị hiện đại, ai sẽ dành phần
thắng? Phải chăng chợ truyền thống sẽ bị diệt vong hoàn toàn? Để trả lời những câu hỏi trên
nhóm đã đi vào nghiên cứu thị trường bán lẻ ở Việt Nam nói chung, ở TP HCM nói riêng
thông qua hai định chế bán lẻ cơ bản là siêu thị và chợ truyền thống
Vì thời gian có hạn và tầm hiểu biết còn hạn chế, bài nghiên cứu không tránh phải
những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của Th.S Phan Thanh Sơn để bài nghiên cứu
hoàn thiện hơn
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
3
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁN LẺ
1.1. Thế nào là bán lẻ?
Bán lẻ là tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán các sản phẩm vật chất và các
dịch vụ trực tiếp cho người sử dụng cuối cùng đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia đình và các
tổ chức không kinh doanh.
Bán lẻ bao gồm việc bán hàng hóa từ một địa điểm cố định, như khu bách hóa tổng
hợp, hoặc Ki-ốt, qua đường bưu điện, hoặc trong những số lượng nhỏ để người mua có thể
tiêu thụ trực tiếp. Bán lẻ có thể còn bao gồm cả dịch vụ hỗ trợ như phân phối/đưa hàng.
Người mua hàng có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Trong thương mại, người bán lẻ mua hàng hóa và sản phẩm với khối lượng lớn từ nhà
sản xuất hoặc nhà nhập khẩu, hoặc thông qua người bán buôn, sau đó bán ra với khối lượng
nhỏ hơn cho người tiêu dùng cuối cùng. Người bán lẻ nằm ở đoạn cuối của chuỗi cung cấp.
Nó là hình thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu cá
nhân của họ, từ đây hàng hoá kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá
nhân; giá trị hàng hoá được thực hiện đầy đủ. Thông thường, bán lẻ được tiến hành trong
mạng lưới thương nghiệp bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu, quầy hàng, kiôt, quán hàng, nhà
ăn, xe hàng lưu động, vv.). Trong lĩnh vực bán lẻ, mỗi lần chỉ bán một số lượng nhỏ, nhưng
cũng có trường hợp bán lẻ những lô hàng lớn, chẳng hạn bán hàng cho những đơn vị tiêu
dùng tập thể (trường học, trại điều dưỡng, tổ chức...). Doanh số bán lẻ là tổng mức lưu
chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội.
1.2. Vai trò của bán lẻ.
1.2.1. Đem hàng hóa đến với người tiêu dùng.
Một nhà sản xuất sẽ gặp rất nhiều khó khăn để có thể tiếp cận được khác hhàng của
mình nếu không thông qua hệ thống bán lẻ. Vì không một nhà sản xuất nào có đủ khả năng
để hàng hóa của mình có thể len lỏi mọi ngóc ngách từ thành thị cho đến nông thôn mà
không qua trung gian. Bản thân người tiêu dùng cũng vậy, với nhu cầu ít của mỗi người
họ sẽ tìm đến các cửa hàng bán lẻ cho thuận tiện hơn là tìm đến tận nơi nhà sản xuất.
1.2.2. Phản hồi( Feedback).
Chính số lượng bán hàng mỗi ngày, nhu cầu của người tiêu dùng ra sao thông qua
doanh số thu mua từng mặt hàng trong các hệ thống phân phối bán lẻ giúp nhà sản xuất nắm
bắt được sở thích, thị hiếu khách hàng của mình. Từ đó giúp họ đưa ra các chiến lược sản
phẩm sao cho phù hợp thị trường.
Thông qua hệ thống bán lẻ hàng hóa, mà người tiêu dùng được tiếp cận trực tiếp với
sản phẩm, được tận tay sờ, chạm vào sản phẩm nên dễ dàng bỏ tiền để có sản phẩm đó. Nếu
4
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
nhà sản xuất không có hệ thống bán lẻ, chỉ thông qua quảng cáo thì người tiêu dùng khó
chấp nhận sản phẩm của họ. Có thể nói bán lẻ đã giúp cho nhu cầu thị trường được thỏa
mãn.
1.2.3. Chia lẻ.
Là việc nhà bán buôn phải thông qua nhà bán lẻ để bán hàng hoá và dịch vụ của minh.
Do đó từ một khối lượng hàng hoá ban đầu mà nhà bán buốn có thể chia lẻ ra cho nhiều nhà
bán lẻ để họ mang đến cho người tiêu dùng. Như vậy các nhà bán lẻ sẽ thông qua khu vực
bán hàng của mình mà cung cấp sản phẩm một lượng sản phẩm chứ không bán lớn như nhà
bán buôn hay nhà sản xuất.
1.2.4. Dự trữ.
Có những mặt hàng khi sản xuất ra thì kho dự trữ hàng hóa là điều làm cho các nhà
sản xuất lo lắng nhất. Như một công ty sản xuất xe hơi hàng đầu ở Nhật, bình quân một
ngày cho xuất xưởng 1000 chiếc xe hơi, họ sẽ làm gì với sản lượng hàng hóa khổng lồ của
mình nếu không có hệ thống bán lẻ cả nước “ giữ hộ”.
Ngoài ra, bán lẻ là hệ thống dự trữ tài chính của các nhà sản xuất. Bởi hiện nay không
phải lúc nào các nhà phân phối cũng giao tiền ngay sau khi nhận hàng từ nhà sản xuất, mà
phải sau một thời gian bán hàng, luân chuyển tiền, thì đồng vốn mới quay trở lại vào tay nhà
sản xuất.
1.3. Các định chế bán lẻ ở Việt Nam.
1.3.1. Specialty store – Cửa hàng chuyên doanh.
Cửa hàng chuyên kinh doanh là một loại cửa hàng chuyên kinh doanh mộtnhóm mặt
hàng nhấtđịnh, theo hai hướng chuyên doanh hẹp (là loại cửa hàng chỉ bán một nhóm sản
phẩm của một nhà cung cấp, như cửa hàng chuyên bán sữa củaVinamilk) hay chuyên doanh
rộng (là loại cửa hàng bán cùng một loại sản phẩm của nhiều nhà cung cấp, như ở Việt
Nam thì có cửa hàng thegioididong.com chuyên bán các loại điện thoại của nhiều hãng).
Đến các cửa hàng chuyên doanh này người mua sẽ được lựa chọn nhiều sản phẩm
cùng chủng loại được bày bán tại đây với số lượng phong phú, nhiều mẫu mã. Ngoài ra
khách hàng sẽ được cửa hàng tư vấn, được hướng dẫn tận tình… tuy nhiên giá sẽ cao hơn
những cửa hàng bán lẻ khác. Những cửa hàng chuyên doanh này dễ đi vào lòng người tiêu
dùng nhờ hình ảnh, nhãn hiệu của mình cộng với một đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên
nghiệp.
Điểm khác biệt của cửa hàng chuyên doanh so với cửa hàng bách hoá tổng hợp
(Department store) và siêu thị (Supermarket) là cửa hàng chỉ bán chuyên sâu một nhóm
hàng, và nếu chỉ tính riêng trong nhóm mặt hàng này thì các hình thức khác cũng không đa
dạng bằng.
5
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
1.3.2. Department store – Cửa hàng bách hóa tổng hợp.
Là loại cửa hàng kinh doanh rất nhiều chủng loại mặt hàng. Có thể nói đến đây người
tiêu dùng dễ dàng kiếm được món hàng mà mình đang cần. Đây là loại cửa hàng có cấu trúc
cao hơn các cửa hàng bình thường với trang thiết bị hiện đại, hòan hảo, dịch vụ miễn phí.
Hiện nay tại Việt Nam số lượng các cửa hàng bách hóa tổng hợp khá nhiều, bởi người
tiêu dùng rất thích đến các cửa hàng có nhiều mặt hàng do sự thuận tiện của nó. Tuy nhiên
các cửa hàng bách hóa tổng hợp thường gặp nhiều rủi ro hơn các cửa hàng khác bởi
số lượng hàng hóa tồn kho thường lớn. Ở Việt Nam các cửa hàng chuyên doanh
thường được bố trí tại các tầng của một tòa nhà nào đó. Mặt hàng thường được trưng bày là
nữ trang,mỹ phẩm, quần áo thời trang, thiết bị dụng cụ trong nhà...
Department store đầu tiên xuất hiện trên thế giới là ở Pháp. Department store Bon
Marche hoạt động vào năm 1838 dưới sự điều hành của 1 doanh nhân người Pháp tên
Aristide Boucicaut. Đến 1852 các sản phẩm hàng hoá được bày bán đa dạng trong 1 tòa nhà.
Ở đây các hàng hóa hóa được bán với giá cố định kèm theo các dịch vụ ưu đãi như là khách
hàng có thể đổi hoặc trả lại hàng hoá trong khoảng thới gian xác định.
Đến nay Department store có thể được xem là 1 loại hình bán lẻ thịnh hành nhất ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Sự phát triển không chỉ dừng
lại ở 1 cửa hàng, ở 1 khu vực mà nó đã phát triển lên thành các chuỗi ở nhiều khu vực, nhiều
quốc gia trên thế giới như David Jones (Úc), Marcy (Mỹ), Sears(Mỹ), Pillars (Mỹ),...
1.3.3. Chain store – Chuỗi cửa hàng.
Là một hệ thống các cửa hàng giống nhau về mặt hàng hóa kinh doanh (90% hàng hóa
buôn bán là giống nhau, còn khoảng 10% là các mặt hàng khác do mỗi cửa hàng tự quyết
định và về sở hữu, quản lý thì thống nhất từ một công ty mẹ. Cũng có một khái niệm khác
định nghĩa chuỗi cửa hàng như là một chuỗi bán lẻ gồm hệ thống các cửa hàng bán lẻ giống
nhau ( về hình thức, cơ cấu tổ chức,quản lý…) và thuộc quyền sở hữu của cùng một công ty
mẹ, hoặc thuộc sở hữu của một cá nhân hay công ty khác hoạt động dưới hình thức nhượng
quyền(franchising) hay hợp đồng (contract)với công ty mẹ.
Với số lượng cửa hàng mà nhỏ hơn 10 được xem là chuỗi nhỏ, lớn hơn 10 được xem
là chuỗi lớn. Một hệ thống các cửa hàng giống nhau từ hàng hóa đến cách bài trí sẽ rất dễ đi
vào lòng người tiêu dùng.
Lợi thế của chuỗi cửa hàng:
- Lợi thế quy mô: càng bán nhiều thì càng giảm được chi phí, gồm : phí vận chuyển
giảm, discount lớn, được hưởng các khoản xúc tiến (promotion) từ nhà sản xuất.
- Hưởng được lợi từ một chính sách Marketing chung của công ty mẹ.
6
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
- Phân tán được rủi ro ở các thị trường khác nhau.
- Hình ảnh cửa hàng được người tiêu dùng chấp nhận.
- Sức mạnh của cửa hàng đối với các đối tác có khuynh hướng tăng lên
Các hình thức của chuỗi cửa hàng:
- Business chains: Là hệ thống các cơ sở (địa điểm) kinh doanh giống nhau, cung
cấp cùng một loại sản phẩm hoặc dịch vụ, sự thống nhất về quản lý, nguồn cung cấp,
chương trình đào tạo, nhân sự. Chúng có thể là một phần của công ty đơn nhất, hoặc hoạt
động dưới dạng nhượng quyền (franchising ).
- Restaurant chains: Là một sự tập hợp của các nhà hàng có mối liên quan, thường
thì cùng tên, khác địa điểm, cùng thuộc sở hữu của cùng một công ty hay thông qua các hợp
đồng nhượng quyền. Đặc trưng của loại hình này là được xây dựng theo một khuôn
khổ thống nhất, thực đơn được chuẩn hóa, và loại hình kinh doanh tiêu biểu của mô hình
này đó là hệ thống các cửa hàng thức ăn nhanh.
1.3.4. Discount Store – Cửa hàng giảm giá.
Cửa hàng giảm giá thực chất là một dạng của cửa hàng bách hoá tổng hợp (department
store), chuyên bán các sản phẩm với giá rẻ hơn các nhà bán lẻ truyền thống. Hầu hết các cửa
hàng loại này thường mang đến cho khách hàng sự đa dạng về chủng loại hàng hoá. Tuy
nhiên cũng có một số cửa hàng giảm giá chỉ chuyên bán một số loại mặt hàng nhất định
như trang sức, các thiết bị và dụng cụ điện…Cũng cần nói rõ ở đây các cửa hàng giảm giá
không phải là dạng cửa hàng một đô ( Dollar Store) – loại cửa hàng chuyên bán sản phẩm
với giá một đô hoặc thấp hơn. Bởi vì, tại cửa hàng giảm giá người ta có thể mua nhiều loại
nhãn hiệu hàng hoá và giá cả cho từng chủng loại cũng có nhiều khác biệt.
Ngày nay cửa hàng giảm giá xuất hiện khá phổ biến tại Mỹ và nhiều quốc gia trên
toàn thế giới. Nhưng có lẽ cũng ít ai biết là sự ra đời của loại cửa hàng này là trong giai
đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà một loạt các nhà bán lẻ tại Mỹ đã bắt đầu thấy lợi
ích của chiến thuật giảm giá để hấp dẩn nhiều khách hàng hơnđể rồi từ đó tằn lợi nhuận
nhờ tính quy mô.
1.3.4. Supermarket -Siêu thị.
Siêu thị là một cửa hàng tự phục vụ được chia ra nhiều khu vực, bộ phận cung cấp
nhiều loại mặt hàng khác nhau như: thức ăn, quần áo, mỹ phẩm, đồ dùng gia đình,… Nó có
qui mô lớn và có nhiều sự lựa chọn hơn là cửa hàng báchhóa truyền thống.
Ở Việt Nam, siêu thị là một loại hình giải trí văn hoá nhằm thỏa mãn nhu cầu nhìn
ngắm và chọn lựa của người dân – là hình thức bán lẻ giành cho mọi đối tượng xã hội. Tuy
chỉ mới phát triển tại Việt Nam năm 1994, từ 10 siêu thị ở 4/64 tỉnh thành phố thì 10 năm
7
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
sau đã có khoảng 150 siêu thị đang hoạt động tại 25 tỉnh thành. Tốc độ tăng trưởng hàng
năm của kênh phân phối hiện đại này khoảng15%-20%. Từ chỗ chỉ chiếm dưới 3% thị phần
bán lẻ, siêu thị đã tăng lên khoảng trên 20% và tốc độ này vẫn chưa dừng lại. Người tiêu
dùng Việt Nam đã có xu hướng chuyển từ mua sắm tại chợ truyền thống sang mua sắm tại
siêu thị. Ở Tp.Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện nay có trên 80% hộ gia đình có thói quen đi chợ
hảng ngày. Chỉ hơn 10% hộ thích đi siêu thị thay cho đi chợ hàng tuần nhưng nếu chỉ đi 1
lần/tháng thì con số tăng lên tới hơn 60%. Một số siêu thị mà người dân đến như Maximak,
Big C, Metro, Citimart,… mỗi siêu thị có những đặc trưng và ưu điểm riêng.
1.3.5. Dollar Store – Cửa hàng một đô.
-Khái niệm: Cửa hàng một đô là loại cửa hàng chỉ bán những món hàng có giá trị thấp
từ một USD trở xuống.
- Sản phẩm kinh doanh (thường thấy trong các cửa hàng một đô).
* Dụng cụ làm sạch: bọt biển, bình xịt, giẻ lau, dụng cụ hốt rác…
* Dụng cụ nhỏ: tua-vít, cờ-lê,đèn pin, móc khóa, dây thừng.
* Dụng cụ nhà bếp: dao, đồ bóc vỏ, chén, đĩa….
* Dụng cụvăn phòng nhỏ: bút, giấy, kẹp giấy, tẩy..
* Dụng cụ trang trí trong các ngày lễ:đồ trang trí lễ giáng sinh, trứg phục sinh…
* Dụng cụ làm vườn; kéo tỉa hoa….
* Và nhiều mặt hàng thông dụng có giá trị nhỏ khác như xà bông, đèn pin...
- Khách hàng:
* Khách hàng của cửa hàng một đô là mọi thành phần trong xã hội, nhưng đa phần
họ có thu nhập không cao có thể cho rằng là thấp.
* Họ cũng chỉ mua sản phẩm khi họ cần, hoặc sản phẩm hết bất ngờ, không có yếu
tố mua nhiều để giảm giá hay mua dự trữ.
* Độ tuổi của họ cũng rất khác biệt ( ví dụ một em nhỏ thì có thể mua tập vở, một
người nội trợ thì có thể mua chén đĩa…)
* Họ có thể ở thành thị, nhưng thường cửa hàng loại này phù hợp với người dân vùng
nông thôn hơn.
8
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
1.3.6. Hypermarket – Siêu siêu thị.
-Khái niệm: Hypermarket là sự kết hợp của Siêu thị (supermarket) và cửa hàng bách
hoá tổng hợp (Department store). Khách hàng sẽ hoàn toàn bị choáng ngợp bởi một không
gian rộng lớn khoảng từ 45,000 dến 65,000 m2 và có thể rộng hơnvới hàng trăm nghìn
chủng loại hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng cho dù đi cả ngày cũng không thể nào đi hết.
-Sản phẩm: vì là sự kết hợp của hai mô hình bán lẻ quy mô lớn nên hàng hóa của
hypermarket là sự cộng lại của mô hình này đồng thời còn có thêm những loại hàng hoá,
dịch vụ mà các hình thức kia có thể không có như trạm xăng, cửa hàngthuốc, dịch vụ sữa xe
là một ví dụ. Còn về giá cả, thì các Hypermarket không có khác biệt gì so với supermarket và
Department Store.
-Khách hàng: Khách hàng của hypermarket là những người có thu nhập cao,
họ thường đến hypermarket vào những ngày cuối tuần để mua sắm và hưởng các dịch vụ mà
loại hình này mang lại, cũng xin nói thêm là các hypermarket thường chỉ nằm vùng ngoại ô,
vì nó quá rộng nên không thích hợp trong khu vực nội thành.
2. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
2.1. Cơ hội và thách thức của thị trường bán lẻ Việt Nam
2.1.1. Cơ hội của thị trường bán lẻ Việt Nam
Sức thu hút của thị trường bán lẻ Việt Nam
Quy mô thị trường bán lẻ VN năm 2007 khoảng 20 tỉ USD và đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân 8%/năm. Kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng 13%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm rất cao - khoảng 30%. Sang năm 2008 với quy mô thị trường trên 83 triệu
dân, với doanh số là 55 tỷ USD, và có tổng trị giá thị trường bán lẻ trị giá hơn 40 tỷ USD/
năm (số liệu của Tổng cục Thống kê). Chỉ số lòng tin của người tiêu dùng (Consumer
Confidence Index)- Việt Nam xếp thứ 5 trên toàn thế giới và người tiêu dùng Việt Nam dẫn
đầu thế giới về tiêu dùng hàng kỹ thuật cao. Riêng tại TPHCM và Hà Nội, kênh bán lẻ hiện
đại có tỉ trọng khoảng 28% (năm 2008) và dự kiến lên đến 37% vào năm 2010.
Thị trường lớn
Việt Nam là một thị trường khá lớn, với gần 90 triệu dân, cơ cấu dân số rất trẻ với
khoảng 65% dân số trong độ tuổi lao động, trên 55% dân số dưới 45 tuổi, hơn một nửa dân
số có độ tuổi dưới 30 và thu nhập của người dân ngày càng cao, tốc độ tăng trưởng hàng
năm cao, và dự báo con số tương ứng năm 2018 là 95 triệu (70 triệu dân thành thị). Người
thành thị VN dẫn đầu về tiêu dùng hàng Hi-tech. Việt Nam có mức tăng trưởng GDP cao và
ổn định, theo đó nhu cầu tiêu dùng cũng ngày một tăng lên. Năm ngoái, tăng trưởng GDP là
8,4% và tiêu dùng thông qua thương mại hơn 45 tỷ USD. Số liệu thống kê gần đây nhất cho
thấy, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2008 ước
9
GVHD : Th.s Trần Thanh Sơn
Quản trị bán lẻ
tính đạt 447,3 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước. Qua đó cho thấy, tiềm
năng phát triển hệ thống phân phối ở nước ta là rất lớn.
Mặt khác sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ VN còn do áp lực cạnh tranh giữa các hệ
thống bán lẻ chưa nhiều và VN có đến 65% dân số là người tiêu dùng trẻ, chi tiêu mạnh tay.
Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp
trung lưu thu nhập trên 500USD/tháng chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị. Chính vì
thế, sức hút của thị trường bán lẻ VN tăng nhanh khi năm 2007, VN xếp hạng 2 trên thế giới
sau Ấn Độ, nhưng tháng 6.2008 - theo xếp hạng của Cty tư vấn Mỹ A.T.Keaney (Tổ chức
Nghiên cứu thị trường hàng đầu tại Hoa Kỳ), về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu
thì Việt Nam đã đứng số 1, được coi là thị trường đầu tư bán lẻ hấp dẫn nhất trong số 30
nước thuộc nhóm thị trường đang nổi lên. Trong danh sách Top 10 thị trường bán lẻ hấp dẫn
nhất, sau Việt Nam là Ấn Độ, giữ vị trí thứ ba là Nga và thứ tư là Trung Quốc; tiếp đến là Ai
Cập, Morocco, Ả-rập Saudi, Chile, Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong các nước ASEAN,
Malaysia đứng thứ 13, Indonesia ở vị trí 15, Thái Lan là 24 và Philippines xếp thứ 26.
Theo các chuyên gia của A.T. Kearney, Việt Nam đạt được bước tiến ấn tượng trong
năm nay là nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh, thể chế chính sách đang cải tiến theo hướng thân
thiện với nhà đầu tư nước ngoài và đặc biệt là nhu cầu của người tiêu dùng về những mô
hình bán lẻ hiện đại.
Theo Mike Moriarty, trưởng bộ phận nghiên cứu về tiêu dùng và bán lẻ của A.T.
Kearney, quy mô thị trường bản lẻ ở Việt Nam còn nhỏ, song vẫn rất hấp dẫn bởi áp lực
cạnh tranh chưa lớn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 8%. Bên cạnh đó,
người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á và ngày càng mạnh tay chi tiêu.
A.T. Kearney bắt đầu công bố GRDI từ năm 2001, trong đó đánh giá về độ hấp dẫn của thị
trường bán lẻ ở những nền kinh tế mới nổi, dựa trên 25 yếu tố khách nhau, bao gồm cả rủi
ro kinh tế, chính trị, mức độ hấp dẫn cũng như bão hòa của thị trường bán lẻ , mức bão hòa
của thị trường bán lẻ và sự khác nhau giữa tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) và tăng
trưởng bán lẻ. Hiện nay không nước nào trong số 10 thị trường bán lẻ hàng đầu năm 1995
còn giữ được ngôi vị của mình. Song Linh (theo Reuters, The Economic Times)
Theo Bộ Công Thương, hiện nay một số tập đoàn, DN phân phối,bán lẻ quốc tế đang
hoàn thiện hồ sơ,chuẩn bị đăng ký kinh doanh tại Việt Nam như: Dairy Farm (Singapore) đã
nộp đơn xin thành lập DN 100% vốn; Lotte (Hàn Quốc) vào Việt Nam qua hình thức liên
doanh; 2 tập đoàn hàng đầu thế giới là Wal – Mart (Mỹ) và Carrefour (Pháp) cũng đang bắt
đầu để ý tới thị trường Việt Nam. Đây là những thông tin đáng mừng cho sự phát triển của
thị trường bán lẻ Việt Nam nhưng lại là đáng lo đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước
bởi từ lúc này sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn bao giờ hết. Các tập đoàn bán lẻ lớn của nước
ngoài như Metro của Đức, Casino của Pháp, Parkson... đều đã có mặt ở Việt Nam. Một tập
đoàn bán lẻ của Canada cũng đã công bố kế hoạch khai trương chuỗi cửa hàng tiện lợi mang
tên Circle K ở Việt Nam.
Thế mạnh của các nhà bán lẻ Việt Nam:
10