Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia laser trong một số chỉ định trên bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ LIÊN HƯƠNG
NGHI£N CøU Kü THUËT Hç TRî PH¤I THO¸T MµNG
B»NG TIA LASER TRONG MéT Sè CHØ §ÞNH
TR£N BÖNH NH¢N THô TINH TRONG èNG NGHIÖM
Chuyên ngành : Mô phôi thai học
Mã số : 62720103
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Hà nội - 2013
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) hiện nay đang rất phát
triển ở Việt Nam. Với kỹ thuật này, mặc dù phôi đã đƣợc nuôi cấy thành công
ngoài cơ thể, nhƣng khi cấy vào tử cung, khả năng bám vào niêm mạc tử cung
làm tổ của phôi chỉ đạt trung bình khoảng 20%, tỷ lệ thai lâm sàng khoảng
35% và tỷ lệ em bé sinh ra còn thấp hơn nữa [66]. Có rất nhiều yếu tố ảnh
hƣởng đến khả năng làm tổ của phôi. Trong đó, một yếu tố quyết định là phôi
phải thoát ra khỏi đƣợc màng trong suốt. Năm 1989, Cohen và cộng sự đã
chứng minh rằng việc tạo một lỗ thủng trên màng trong suốt sẽ giúp phôi
TTTON thoát màng dễ hơn và tỉ lệ làm tổ của phôi sẽ cao hơn. Kỹ thuật này
đƣợc các tác giả đặt tên là kỹ thuật ―hỗ trợ thoát màng‖ (assisted hatchingAH) [trích dẫn 39].
Có ba cơ chế có thể giải thích hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng: (1)
Trong điều kiện nuôi cấy nhân tạo kéo dài hoặc đông lạnh, màng trong suốt bị
cứng chắc bất thƣờng hoặc không mỏng đi trong quá trình phôi phát triển, làm
cho phôi không thể thoát ra ngoài và bám vào nội mạc tử cung để làm tổ [33],
[41]. (2) Hỗ trợ phôi thoát màng giúp phôi thoát màng sớm hơn, phù hợp với
―cửa sổ làm tổ‖ của niêm mạc tử cung sớm hơn 1-2 ngày của chu kỳ kích
thích buồng trứng so với chu kỳ tự nhiên [114]. (3) Mở màng trong suốt nhân
tạo có thể tạo một kênh trao đổi các chất chuyển hóa, các yếu tố tăng trƣởng
và các ―tín hiệu dẫn truyền‖ giữa phôi và niêm mạc tử cung [34].
Có nhiều phƣơng pháp hỗ trợ phôi thoát màng, có thể làm mỏng hay
làm thủng màng trong suốt của phôi bằng cơ học, hóa chất hoặc bằng tia laser.
Tuy nhiên, kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia laser hiện đƣợc nhiều
trung tâm ƣa chuộng vì tính tiện dụng và an toàn của nó. Mặc dù hỗ trợ phôi
thoát màng có thể sử dụng rộng rãi cho nhiều trƣờng hợp, nhƣng nói chung,
kỹ thuật này thƣờng đƣợc dùng cho một số chỉ định của bệnh nhân thụ tinh
trong ống nghiệm [38], [156].
Tại Việt Nam, kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia laser mới đƣợc
áp dụng. Bệnh viện Phụ Sản Trung Ƣơng bắt đầu thực hiện hỗ trợ phôi thoát
màng vào năm 2009. Cho đến nay, có nhiều nghiên cứu trên thế giới và một
số rất ít nghiên cứu trong nƣớc đánh giá hiệu quả của kỹ thuật hỗ trợ thoát
màng trong TTTON. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng hỗ trợ thoát màng
nói chung giúp làm tăng tỉ lệ phôi làm tổ và tỉ lệ có thai của TTTON [38],
[156]. Bên cạnh đó cũng có không ít nghiên cứu cho thấy kỹ thuật này không
đem lại hiệu quả [38], [141], [163].
Nhìn chung, vẫn tồn tại một số vấn đề mà các nghiên cứu trƣớc đây còn
chƣa đề cập đến hoặc còn chƣa thống nhất. Đó là hỗ trợ phôi thoát màng trên
3
nhóm đối tƣợng TTTON nào sẽ có hiệu quả? Nếu có hiệu quả thì cách thức
đục lỗ hay làm mỏng sẽ tốt hơn? Nếu đục lỗ hay làm mỏng thì kích thƣớc bao
nhiêu là tối ƣu? Để góp phần trả lời câu hỏi này, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu với Đề tài “ Nghiên cứu kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia laser
trong một số chỉ định trên bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm”.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia
laser diode 1.48µm với hai phƣơng pháp đục lỗ và làm mỏng màng
trong suốt của phôi ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm trên 38
tuổi chuyển phôi tƣơi.
2. Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia laser
diode 1.48µm với hai phƣơng pháp đục lỗ và làm mỏng màng trong
suốt của phôi trên các bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) [39], [57]
TTTON có nghĩa là cho tinh trùng thụ tinh với noãn và nuôi cấy thành
phôi trong ống nghiệm. Sau đó, một số phôi sẽ đƣợc chuyển trở lại vào buồng
tử cung. Quá trình phát triển của phôi và thai sẽ diễn ra hoàn toàn bình thƣờng
trong tử cung ngƣời mẹ.
Kỹ thuật này đƣợc thực hiện thành công trên thế giới lần đầu tiên vào
năm 1978 và lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1998.
Một chu kỳ TTTON bao gồm: kích thích nang noãn, chọc hút lấy noãn
ra ngoài cho kết hợp với tinh trùng trong phòng thí nghiệm, nuôi cấy thành
phôi để chuyển trở lại vào buồng tử cung.
Có 3 phác đồ KTBT thƣờng đƣợc sử dụng: Phác đồ dài (thƣờng dùng
trong IVF cổ điển): dùng GnRH đồng vận (GnRH a) bắt đầu từ ngày thứ nhất
của chu kỳ kinh hoặc từ ngày thứ 21 của chu kỳ và liên tục trong 14 ngày. Sau
đó, dùng FSH phối hợp với GnRH cho đến khi tiêm hCG. Phác đồ ngắn:
GnRHa đƣợc tiêm cùng với FSH từ đầu chu kỳ. Phác đồ ngắn thƣờng đƣợc
chỉ định cho những phụ nữ có dự trữ buồng trứng kém. Có thể sử dụng GnRH
đối vận (GnRH-antagonis) từ ngày 5-6 của chu kỳ để đề phòng đỉnh LH nội
sinh hoặc để giảm nguy cơ quá kích buồng trứng. Từ ngày thứ 8-13 của FSH,
4
chỉ định cho thuốc rụng noãn (thƣờng dùng hCG) khi siêu âm có > 1 nang
18mm hoặc > 3 nang noãn kích thƣớc > 16 mm.
Chọc hút noãn sau tiêm hCG 34-36 giờ. Noãn thu đƣợc sẽ ủ ấm trong
tủ cấy CO2, 370C khoảng 3-6h trƣớc khi đƣợc cấy với tinh trùng hoặc cho thụ
tinh bằng kỹ thuật ICSI.
Đánh giá thụ tinh đƣợc tiến hành 18-20h sau cấy với tinh trùng trong
kỹ thuật IVF cổ điển, 14-16h sau tiêm tinh trùng vào bào tƣơng noãn. Đánh
giá thụ tinh bình thƣờng khi thấy hai tiền nhân.
Hiện nay, các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế giới đánh giá chất
lƣợng phôi chủ yếu dựa vào hình thái và tốc độ phân chia của phôi. Hình thái
của phôi đƣợc theo dõi và đánh giá từ hình thái noãn, hợp tử rồi đến phôi
phân chia. Đánh giá hình thái phôi giai đoạn phân chia sớm (ngày 2, 3) dựa
vào các chỉ tiêu chính là số lƣợng phôi bào, độ đồng đều giữa các phôi bào, tỷ
lệ các mảnh vỡ (fragment). Các chỉ tiêu phụ gồm có sự phân chia phôi bào
đồng thời (synchronise - phân chia 2-4-8), mật độ hạt trong bào tƣơng, số
lƣợng hạt nhân, không bào trong phôi bào. Đánh giá hình thái phôi nang dựa
vào độ nở rộng của phôi, hình thái của khối tế bào nội phôi (ICM) và nguyên
bào lá nuôi (TE).
Hình 1.1. Quy trình thụ tinh ống nghiệm.
(Nguồn http://www.kjivf.com/ivf.php).
Các phôi tốt nhất sẽ đƣợc chọn để chuyển phôi. Hiện nay đa số các
trung tâm lớn ở Mỹ và Châu Âu thƣờng chuyển 1-2 phôi ngày 5 (phôi nang).
Hai tuần sau khi chuyển phôi, ngƣời phụ nữ đƣợc lấy máu để thử thai.
Nếu kết quả thử thai dƣơng tính (hCG > 50 IU/l), 2-3 tuần sau, sản phụ sẽ
đƣợc siêu âm để xác định túi ối và tim thai trong buồng tử cung.
Chọc hút noãn qua âm đạo
Nuôi cấy phôi
Chuyển phôi
Kích thích nang noãn
5
Tỉ lệ thành công của mỗi chu kỳ điều trị TTTON trung bình trên thế
giới hiện nay khoảng 25%-70%. Tỉ lệ này phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, chỉ
định điều trị và phác đồ điều trị của từng trung tâm.
1.2. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thông dụng kèm theo TTTON
1.2.1. Đông lạnh phôi
Đây là kỹ thuật phổ biến ở hầu hết các trung tâm làm thụ tinh trong ống
nghiệm. Nguồn phôi đông lạnh chủ yếu từ các phôi thừa sau chu kỳ chuyển
phôi tƣơi, hoặc từ phôi của các bệnh nhân vì một số lý do không chuyển đƣợc
phôi tƣơi hay từ phôi của ngƣời hiến tặng. Phôi có thể đƣợc đông lạnh ở các
giai đoạn phát triển khác nhau của phôi và bằng các phƣơng pháp đông lạnh
khác nhau nhƣ đông lạnh chậm, đông phôi thuỷ tinh hoá. Trong đó, phƣơng
pháp đông phôi thủy tinh hóa là phổ biến nhất hiện nay.
1.2.2. Đông tinh trùng
Kỹ thuật này đƣợc chỉ định cho các trƣờng hợp chồng khó lấy tinh
trùng hoặc trƣớc khi đi xa hay điều trị tia xạ, hoá chất. Tuy nhiên, cần phân
tích chất lƣợng tinh trùng trƣớc đông để khi rã đông sẽ có những chỉ định
thích hợp cho mẫu tinh trùng đó.
1.2.3. Đông noãn
Đông noãn thƣờng đƣợc chỉ định cho các trƣờng hợp: Chồng không lấy
đƣợc tinh trùng trong ngày vợ chọc hút noãn mà không muốn xin tinh trùng
của ngƣời khác; Các trƣờng hợp xin noãn mà chƣa chuẩn bị niêm mạc tử cung
phù hợp; trƣớc khi điều trị tia xạ, hoá chất; Bảo tồn khả năng sinh sản.
Noãn sau khi rã đông muốn thụ tinh đƣợc phải làm ICSI để khắc phục
khả năng thụ tinh thấp do thay đổi cấu trúc màng trong suốt khi đông lạnh. Tỷ
lệ thai lâm sàng từ các chu kỳ đông noãn còn thấp.
1.2.4. Xin, cho phôi, noãn, tinh trùng
Có nhiều trƣờng hợp không có tinh trùng hoặc không có noãn, do vậy
cần phải dùng noãn hoặc tinh trùng của ngƣời cho. Một số trƣờng hợp không
có phôi của chính mình mà muốn có con có thể xin phôi hiến.
1.2.5. Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI)
ICSI (intra-cytoplasmic sperm injection) là kỹ thuật dùng hệ thống vi
thao tác xử lý tiêm tinh trùng vào bào tƣơng noãn. Kỹ thuật này giúp kiểm
soát đƣợc tỷ lệ thụ tinh, đảm bảo khả năng có phôi. Do vậy, ICSI góp phần
trong sự ổn định và gia tăng hiệu quả của một chu kỳ TTTON.
1.2.6. Kỹ thuật lấy tinh trùng từ tinh hoàn và mào tinh
Các kỹ thuật này thực hiện cho các bệnh nhân vô sinh nam xuất tinh
không có tinh trùng (azoospermia) do tắc hoặc không tắc ống dẫn tinh. Tinh
6
trùng thu đƣợc chƣa trƣởng thành hoàn toàn, do vậy phải tiến hành ICSI để
thụ tinh với noãn.
1.2.7. Hỗ trợ phôi thoát màng (AH)
Kỹ thuật này giúp phôi dễ thoát màng nhằm tăng tỷ lệ có thai và làm tổ
của phôi. Đến nay, trên thế giới đã có 4 phƣơng pháp đƣợc áp dụng để hỗ trợ
phôi thoát màng: Làm mỏng hoặc làm thủng màng trong suốt bằng cơ học,
bằng men pronase, bằng axit Tyrode và bằng tia laser. Có nhiều tranh cãi
xung quanh chỉ định của kỹ thuật cho đối tƣợng TTTON nào thì hiệu quả.
1.2.8. Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD)
Chẩn đoán di truyền trƣớc làm tổ đƣợc tiến hành nhằm sàng lọc phôi
không có bất thƣờng về di truyền trƣớc khi chuyển phôi, đôi khi có thể thực
hiện trên noãn trƣớc khi cho thụ tinh. Kỹ thuật này cho phép các cặp vợ
chồng có nguy cơ truyền bệnh di truyền cho con có cơ hội sinh con không
mắc bệnh, không phải bỏ thai khi thai đã lớn, tránh đƣợc những hậu quả xấu
ảnh hƣởng lên tâm lý của ngƣời mẹ và gia đình.
1.2.9. Nuôi cấy noãn non (IVM)
Trƣởng thành noãn non là kỹ thuật nuôi noãn non đến giai đoạn trƣởng
thành ở môi trƣờng nuôi cấy chuyên biệt ngoài cơ thể. Noãn sau khi đã trƣởng
thành sẽ đƣợc thụ tinh bằng phƣơng pháp IVF/ICSI và nuôi cấy tiếp nhƣ các
trƣờng hợp TTTON thông thƣờng.
1.3. Quá trình phát triển của phôi tiền làm tổ
1.3.1. Quá trình phát triển của phôi tiền làm tổ tự nhiên
Thụ thai là kết quả của quá trình làm tổ của noãn đã thụ tinh. Noãn thụ
tinh hay còn gọi là phôi tiền nhân (phôi ngày 1) sẽ trải qua ba giai đoạn trong
suốt quá trình làm tổ:
* Giai đoạn 1: Di chuyển đến buồng tử cung
- Các yếu tố tác động đến quá trình di chuyển là dịch ổ bụng, hoạt động
cơ trơn của vòi tử cung và hoạt động của nhung mao vòi tử cung.
- Ngoài ra, noãn cũng sẽ thực hiện tuần tự quá trình phân bào và biệt hoá
tế bào trong suốt quá trình di chuyển này:
+ Ngày 0: Noãn thụ tinh với tinh trùng, hiện tƣợng này thƣờng xảy ra ở
một phần ba ngoài của vòi tử cung.
+ Ngày 1: Phôi ngày 1 (hợp tử có hai tiền nhân) trong suốt quá trình di
chuyển đƣợc bảo vệ bởi màng trong suốt (zona pellucida) và đƣợc dinh dƣỡng
nhờ cơ chế thẩm thấu.
+ Ngày 2: Phôi phân chia có từ 2-4 tế bào.
7
+ Ngày 3: Phôi phân chia có từ 6-8 tế bào, lúc này phôi nằm ở khoảng eo
của vòi tử cung.
+ Ngày 4: Phôi tiếp tục phân bào và trở thành phôi dâu, có từ 15-50 tế
bào. Phôi nằm ở đoạn kẽ vòi tử cung.
+ Ngày 5: Hình thành phôi nang (blastocyst), biệt hoá thành hai nhóm tế bào
phôi (nguyên bào lá nuôi và khối tế bào nội phôi). Phôi đã đến buồng tử cung.
+ Ngày 6 (hatching): Phôi thoát khỏi màng trong suốt.
* Giai đoạn 2: Tƣơng tác giữa các nguyên bào lá nuôi của phôi nang và
niêm mạc tử cung và thƣơng lƣợng miễn nhiễm để niêm mạc tử cung chấp
nhận phôi làm tổ.
* Giai đoạn 3: Làm tổ tại niêm mạc tử cung.
+ Ngày 8: Phôi thoát màng chìm vào niêm mạc tử cung, hình thành phôi
hai lá, chƣa tiếp xúc với mạch máu của mẹ.
+ Ngày 9: Phôi chìm hoàn toàn vào niêm mạc tử cung, tạo các hốc giữa
các hợp bào nuôi, chƣa tiếp xúc với mạch máu mẹ.
+ Ngày 10: Tiếp xúc với mạch máu mẹ nên hiện diện hCG trong máu mẹ.
1.3.2. Quá trình phát triển của phôi tiền làm tổ trong TTTON
+ Ngày 0: Noãn sau chọc hút đƣợc các chuyên viên phôi học thu nhặt
và đánh giá chất lƣợng noãn dựa vào hình thái trƣởng thành của các tế bào hạt
bao quanh noãn, bào tƣơng noãn, cực cầu và nhân của noãn. Cho noãn thụ
tinh với tinh trùng sau chọc hút 3- 6h.
+ Ngày 1: Kiểm tra thụ tinh. Hình thái hai tiền nhân có thể tiên lƣợng
đƣợc khả năng phát triển của phôi [140], [154], [155]. Đánh giá hình thái dựa
vào kích cỡ, vị trí hai tiền nhân và các hạt nhân.
+ Ngày 2, 3: Giai đoạn phôi phân chia sớm: Đánh giá chất lƣợng phôi
dựa vào hình thái: số lƣợng (ngày 2: 4 tế bào; ngày 3: 8 tế bào) và độ đồng
đều của phôi bào, sự phân chia đồng bộ (2-4-8) của phôi bào, độ chiết quang,
mật độ hạt của bào tƣơng phôi bào,... Đánh giá chất lƣợng phôi ngày 2 rất
quan trọng để quyết định ngày chuyển phôi. Có thể chuyển phôi ngày 2, ngày
3 hoặc ngày 5 (tùy trung tâm). Thông thƣờng, nếu có ít nhất 2-3 phôi ngày 3
chất lƣợng tốt thì sẽ nuôi cấy tiếp để chuyển phôi ngày 5.
+ Ngày 4: Phôi dâu, bắt đầu xuất hiện các hốc dịch nhỏ.
+ Ngày 5: Phôi nang nở rộng, dịch nang lấp đầy thể tích phôi, khối tế
bào nội phôi có nhiều tế bào nhỏ, liên kết chặt, các nguyên bào lá nuôi có
nhiều tế bào, liên tục.
+ Ngày 6: Phôi thoát màng.
8
Kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng đƣợc thực hiện trên phôi ngày 2, ngày
3 hoặc ngày 5 (tùy trung tâm). Khi tiến hành AH trên phôi ngày 2, ngày 3,
thƣờng đến ngày 5 phôi sẽ thoát màng (sớm hơn tự nhiên một ngày), giúp cho
phôi làm tổ sớm hơn, dễ đồng bộ với niêm mạc tử cung hơn [100].
1.4. Hỗ trợ phôi thoát màng
1.4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thoát màng của phôi
- Màng trong suốt
Một trong các yếu tố chính quyết định khả năng thoát màng của phôi là
màng trong suốt. Phôi thoát màng đƣợc hay không còn phụ thuộc vào độ dày
màng trong suốt và tính đàn hồi của màng này. Ở ngƣời, màng trong suốt dày
khoảng 13-15 m. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy màng trong suốt của
các đối tƣợng bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm có độ dày trung bình vào
khoảng 16-19 m [16], [72], [112], [118], [124]. Màng trong suốt có bản chất
glycoprotein và có nhiều chức năng quan trọng. Cấu trúc màng trong suốt
ngƣời gồm bốn loại glycoprotein (ZP1, ZP2, ZP3, ZPB) [92]. Ngƣời ta xác
định đƣợc ba gen mã hóa các loại protein này [143]. Ở một số loài protein tổng
hợp nên màng trong suốt đƣợc sản xuất tại gan, trong khi ở động vật có vú,
protein đó đƣợc sản xuất ngay tại buồng trứng [94]. Các protein này đƣợc hoạt
tiết trong quá trình nang noãn phát triển để hình thành màng trong suốt [64],
[143]. Nhiều nghiên cứu đã đƣợc tiến hành nhƣng cấu trúc của màng trong suốt
noãn và phôi ngƣời cho đến nay vẫn chƣa đƣợc biết rõ. Các mô hình cấu trúc
hiện nay đƣợc xây dựng dựa trên phân tích màng trong suốt của động vật có
vú. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy màng trong suốt là màng kép có ba lớp
đồng tâm [36], [174]. Các sợi của lớp trong cùng (lớp 1) tỏa tròn hình vành tia.
Các sợi của lớp ngoài cùng (lớp 3) xếp theo hƣớng tiếp tuyến. Các sợi lớp giữa
xếp ngẫu nhiên. Dƣới kính hiển vi (KHV) phân cực, các lớp này lƣỡng chiết,
phân biệt rõ 3 lớp với lớp giữa chiết quang ít nhất (hình 1.2) [36].
9
Hình 1.2. Cấu trúc nhiều lớp của màng trong suốt chụp dưới KHV phân cực
(PolScope). A: noãn người chụp KHV đảo ngược bình thường. B: noãn người chụp
KHV phân cực. C: Phôi ngày 3 chụp phân cực. D: Các lớp của màng trong suốt phân
biệt dưới KHV phân cực. E: Các lớp của màng trong suốt noãn và phôi.
(Nguồn: Pelletier. PolScope views laminar zona. Fertil Steril 2004 [36]).
Trong nang noãn, màng trong suốt đóng vai trò nhƣ một hàng rào sinh
lý ngăn giữa noãn và các tế bào nang. Khi thụ tinh, tinh trùng gắn với các thụ
thể trên bề mặt màng trong suốt. Những thay đổi về sinh hoá của màng trong
suốt xảy ra sau khi thụ tinh làm màng này cứng lại và ngăn chặn hiện tƣợng
đa thụ tinh [44]. Trong quá trình phát triển của phôi giai đoạn tiền làm tổ,
màng trong suốt bảo vệ sự toàn vẹn của phôi [17]. Khi di chuyển từ vòi trứng
về tử cung, màng trong suốt rất cần thiết để đảm bảo cấu trúc của phôi vì liên
kết giữa các tế bào của phôi rất yếu. Ngoài ra, nếu tách bỏ toàn bộ hoặc một
phần màng trong suốt của phôi cừu thì phôi có thể bị thoái hoá khi gặp một số
kháng thể trong tử cung [158]. Khi làm thụ tinh trong ống nghiệm, màng
trong suốt của phôi có thể bị cứng lại do ảnh hƣởng của quá trình nuôi cấy
kéo dài hoặc phải trải qua đông lạnh và rã đông... [33], [41].
Bên cạnh đó, màng trong suốt còn có thể chịu ảnh hƣởng của một số
yếu tố khác. Môi trƣờng nội tiết do dùng thuốc kích thích rụng trứng cũng là
một yếu tố liên quan đến độ dày màng trong suốt [23].
Đã có những nghiên cứu cho thấy độ dày và hình dạng của màng trong
suốt có liên quan đến chất lƣợng phôi, sự phát triển của phôi và tỷ lệ có thai
[58], [78]. Đặc biệt là quá trình mỏng đi của màng trong khi phôi phát triển.
Trong tự nhiên, khi phôi ngày 5 (phôi nang-blastocyst), di chuyển đến tử
cung, phôi sẽ tự thoát màng và hiện tƣợng làm tổ sẽ xảy ra. Trƣớc khi thoát
màng, phôi nang nở to, màng trong suốt giãn ra và mỏng đi. Trong quá trình
Noãn Phôi
Lớp3
Lớp 2
Lớp 1
Mặt trong màng trong suốt
Mặt ngoài màng trong suốt
Thoi vô sắc
Màng trong suốt
Thƣớc đo 20µm
10
thoát màng, màng trong suốt mỏng đi do hai yếu tố: (1) Xuất hiện các chu kỳ
co thắt và dãn ra của phôi; (2) Vai trò của chất lysins do các nguyên bào lá
nuôi và niêm mạc tử cung tiết ra làm ly giải màng trong suốt. Khi không có
chất này sẽ dẫn tới việc làm tổ thất bại [62]. Chu kỳ co giãn của màng trong
suốt đƣợc theo dõi trên thực nghiệm ở phôi nang của chuột, cừu, bò và ngƣời.
Kết quả là sau vài chu kỳ nhƣ vậy, màng trong suốt sẽ mỏng đi. Tƣơng tự nhƣ
vậy, chu kỳ co giãn xảy ra trên các nguyên bào lá nuôi của phôi nang ngƣời,
hiện tƣợng này cũng giúp cho phôi thoát màng xảy ra trong điều kiện nuôi
cấy. Tuy vậy, ở điều kiện tự nhiên, chƣa rõ sự co giãn này có làm phôi thoát
màng tốt hơn hay không, nhƣng dƣờng nhƣ nó cũng giúp cho phôi tiếp xúc và
làm tổ trên niêm mạc tử cung [63].
Ngƣời ta nhận thấy rằng quá trình mỏng đi này không chỉ thƣờng thấy rõ
ở giai đoạn phôi nang nở ra, mà còn thấy đƣợc từ giai đoạn hợp tử cũng nhƣ
giai đoạn phân chia của phôi. Những phôi tốt nhất thƣờng có sự thay đổi độ
dày mỏng của màng trong suốt. Theo Gabrielsen và cộng sự (2000), khi màng
trong suốt mỏng đi hơn 25%, tỷ lệ có thai là 40% (24/60). Ngƣợc lại, với
những phôi có màng mỏng đi ít hơn 10% thì không ghi nhận đƣợc trƣờng hợp
nào có thai (0/21). Ngoài ra, sự mỏng đi của màng trong suốt không những liên
quan đến tỷ lệ có thai cao mà còn liên quan đến hình thái phôi tốt [55], [56].
- Men lysins
Nghiên cứu của Schiewe và cộng sự (1995) trên chuột cho thấy, cơ chế
khởi phát của sự làm tổ dƣờng nhƣ không phải do lysins của màng trong suốt
và các chu kỳ co giãn của phôi nang. Các tác giả cho rằng lá nuôi của phôi
(TE) chịu trách nhiệm chế tiết lysins cần thiết cho sự làm tổ [135].
- Sự phát triển của phôi
Các số liệu nghiên cứu trên phôi nang chuột gần đây cho thấy phôi thoát
màng khi nuôi cấy nhân tạo phụ thuộc vào số lƣợng tế bào đầy đủ để cấu thành
phôi đó. Đối với các phôi ngừng phát triển (có thể do nhiều yếu tố: Chất lƣợng
noãn, chất lƣợng tinh trùng, chất lƣợng phôi không tốt do các nguyên nhân di
truyền, do phác đồ KTBT... hoặc do các yếu tố khách quan: môi trƣờng nuôi
cấy, chất lƣợng lab thụ tinh ống nghiệm không đảm bảo...), hiện tƣợng thoát
màng không thể xảy ra. Phôi không có đủ số lƣợng tế bào, áp lực nội phôi
không đủ làm cho phôi không nở ra đƣợc để thoát màng [trích dẫn 39, 76].
- Một số yếu tố khác
Phôi thoát màng trong tự nhiên không giống nhƣ phôi nuôi cấy. Phôi
nuôi cấy (in vitro) thƣờng tự thoát màng chậm hơn so với phôi tự nhiên (in
vivo) khoảng 1-2 ngày [62]. Sự khác biệt này liên quan đến tử cung và các
yếu tố gây ly giải lá nuôi phôi (TE) của niêm mạc tử cung [88].
1.4.2. Hỗ trợ phôi thoát màng: khái niệm, chỉ định, các phương pháp
11
1.4.2.1. Khái niệm
Dựa trên giả thuyết về sự bất thƣờng có thể có của màng trong suốt và
sự thoát màng của phôi trong khi thực hiện nuôi cấy phôi trong TTTON, các
nhà khoa học phát triển các kỹ thuật làm mỏng hoặc làm thủng màng trong
suốt bên ngoài phôi, giúp phôi dễ thoát ra ngoài và làm tổ vào tử cung hơn.
Kỹ thuật này đƣợc các tác giả đặt tên là kỹ thuật ―hỗ trợ phôi thoát màng‖
(assisted hatching) [33].
Hỗ trợ thoát màng có thể đƣợc thực hiện từ các phôi ở giai đoạn phân
chia sớm đến giai đoạn phôi nang, bằng các phƣơng pháp khác nhau và trên
nhiều chỉ định khác nhau của bệnh nhân TTTON.
1.4.2.2. Các chỉ định thường gặp của AH trên bệnh nhân TTTON.
Chỉ định AH đến nay nhìn chung chƣa thống nhất giữa các trung tâm
TTTON, có trung tâm chỉ định AH 100% bệnh nhân TTTON. Ngƣợc lại, có
trung tâm không chỉ định AH vì cho rằng AH không hiệu quả.
Một số chỉ định thƣờng gặp của AH:
1. Bệnh nhân tiên lƣợng kém (ít phôi, lớn tuổi, tăng FSH, màng trong suốt
dày bất thƣờng).
2. Bệnh nhân thất bại nhiều lần mặc dù chất lƣợng phôi tốt.
3. Bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh.
Ngoài ra, AH có thể chỉ định trong các trƣờng hợp nuôi noãn non (IVM),
hỗ trợ sinh thiết phôi chẩn đoán di truyền trƣớc làm tổ (PGD), màng trong
suốt của phôi không đàn hồi...
1.4.2.3. Các phương pháp hỗ trợ phôi thoát màng [39]
Các phƣơng pháp đều có mục đích chung là làm thủng (hình 1.3) hoặc
làm mỏng (hình 1.4) màng trong suốt bao quanh phôi trƣớc khi chuyển phôi vào
tử cung. Cách thức hỗ trợ phôi thoát màng có thể chỉ là đục một lỗ nhỏ hay làm
mỏng 5-10µm hoặc đục lỗ to hay làm mỏng đến nửa chu vi màng trong suốt,
hoặc thậm chí lột bỏ màng trong suốt hay
làm mỏng hoàn toàn màng này.
Hình 1.3. Đục lỗ thủng trên phôi ngày 3.
Màng trong suốt
Lỗ thủng sau AH
12
Hình 1.4. Làm mỏng màng trong suốt của phôi ngày 3.
a. Hỗ trợ phôi thoát màng bằng phương pháp cơ học
Phƣơng pháp cổ điển nhất là phƣơng pháp cơ học. Ngƣời ta sử dụng một kim
giữ phôi và một loại kim chuyên dụng xuyên thủng màng trong suốt, sau đó mài
màng trong suốt vào kim giữ để xé rách một đoạn nhỏ trên màng trong suốt của phôi
(hình 1.5). Cohen và cộng sự đã sử dụng kỹ thuật xẻ màng trong suốt bán phần
(1989). Niset và cộng sự dùng kỹ thuật mài màng trong suốt (1992) [trích dẫn 39].
Phƣơng pháp này hiện ít đƣợc sử dụng vì khó thao tác, dễ gây tổn thƣơng phôi.
Hình 1.5. Làm mỏng bằng phương pháp cơ học: mài màng trong suốt
b. Hỗ trợ phôi thoát màng bằng men pronase
Trong phƣơng pháp này, phôi sẽ đƣợc cho vào môi trƣờng có chứa men
pronase là một loại men tiêu protein ở nồng độ thích hợp trong một thời gian
ngắn (khoảng 10 giây). Dƣới tác động của men này, toàn bộ màng trong suốt
của phôi sẽ mỏng đi hay hoàn toàn biến mất. Fong và cộng sự (1998) là
những ngƣời đầu tiên báo cáo thành công phƣơng pháp này [51]. Phƣơng
pháp này hiện ít đƣợc sử dụng vì độ an toàn không cao.
c. Hỗ trợ phôi thoát màng bằng axit Tyrode
Phƣơng pháp hỗ trợ thoát màng sau phƣơng pháp cơ học thƣờng đƣợc
dùng là phƣơng pháp sử dụng axit Tyrode. Điểm yếu của phƣơng pháp này là
axit Tyrode có tính độc trên phôi, làm tiêu các phôi bào, ngoài ra còn đòi hỏi
kỹ năng thao tác chuẩn xác, hạn chế tối đa thời gian phôi tiếp xúc với axit.
Lợi thế khi dùng axit Tyrode so với phƣơng pháp cơ học là có thể tăng kích
Phôi bào
Vị trí làm mỏng
13
thƣớc lỗ thủng trên màng trong suốt dễ dàng hơn. Ngoài ra, không cần phải
đầu tƣ ban đầu tốn kém cho phƣơng pháp này. Tuy nhiên, mỗi lần thao tác lại
tốn khá nhiều dụng cụ tiêu hao.
Hình 1.6. Làm mỏng màng trong suốt bằng
axit Tyrode.
Kỹ thuật này cần dùng một kim giữ (holding pipette) để giữ phôi và một
kim chuyên dụng (hatching pipette hay micropipette) để bơm dung dịch axit
(hình 1.6). Sau khi làm mỏng hoặc tạo lỗ đạt yêu cầu cần dừng ngay bơm axit ra
tiếp để tránh cho khoang quanh phôi khỏi bị axit xâm nhập và rửa sạch phôi khỏi
môi trƣờng có axit. Ngƣời ta có thể hút bớt một số mảnh vỡ ngoài các phôi bào,
hoặc các phôi bào thoái hoá của phôi rã đông trong quá trình này [127].
d. Hỗ trợ phôi thoát màng bằng tia laser (LAH)
Đây là phƣơng pháp ra đời sau cùng và đƣợc xem là tiên tiến nhất hiện nay.
Tadir và cộng sự (1991) là những ngƣời đầu tiên mô tả phƣơng pháp này [151].
* Khái niệm laser [7]
Laser là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Light Amplification by
Stimulated Emission of Radiation, nghĩa là: khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ
cƣỡng bức. Laser là chùm ánh sáng có những tính chất đặc biệt: Có độ đơn
sắc, độ định hƣớng và độ chói phổ rất cao. Những tính chất trên tạo ra một ƣu
thế đặc biệt của laser và đƣợc ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau.
14
* Các loại tia laser và ứng dụng
Nguồn laser sử dụng trong y học gồm hai nhóm chính [5]:
- Các laser công suất thấp, còn gọi là laser mềm hay laser không nhiệt,
đƣợc sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực Vật lý trị liệu để điều trị bệnh. Các chùm
tia laser này có công suất chỉ cỡ vài milliwatt tới vài chục milliwatt và chỉ gây
tǎng nhiệt độ của tổ chức đƣợc chiếu không quá 0,10C-0,50C. Hiệu quả điều
trị của laser loại này dựa trên sự kích thích sinh học của tia laser dẫn tới điều
chỉnh lại các rối loạn hoạt động của tổ chức bị tổn thƣơng, tǎng cƣờng sức đề
kháng và tái tạo mô. Điển hình cho nhóm laser này là: Laser He-Ne, laser IR
(laser bán dẫn hồng ngoại: Ga-As), laser He-Cd và laser Nitơ...
- Các laser công suất cao, còn gọi là laser cứng. Chùm tia laser loại này
thƣờng phải có công suất lớn cỡ vài watt cho tới vài trǎm watt. Các laser này
tạo ra hiệu ứng nhiệt để làm quang đông hoặc bốc bay tổ chức. Điển hình cho
nhóm này là: Laser CO2, laser Nd-YAG, laser Rubi, laser Argon,...Laser
diode bán dẫn cũng nằm trong nhóm này.
* Các loại tia laser dùng trong hỗ trợ phôi thoát màng(LAH)
Có hai loại LAH:
(1) Laser tiếp xúc: Xung laser đƣợc truyền qua sợi quang siêu vi tiếp xúc
trực tiếp với màng trong suốt bằng một kim chuyên dụng. Sau đó, nhiều tác
giả khác sử dụng tia laser trực tiếp nhƣng có cải tiến hơn. Nhƣợc điểm của
dùng tia laser trực tiếp là năng lƣợng laser theo dõi khó chính xác, có thể tạo
các xung laser không an toàn. Ngoài ra, hệ thống này mở nên dễ bị bụi bẩn,
tắc nghẽn đầu dây, khó tinh chỉnh, dễ bị ảnh hƣởng của môi trƣờng ngoài.
(2) Laser không tiếp xúc: Hệ thống laser không tiếp xúc cho phép vật kính
truyền ánh sáng của tia laser đến đƣợc đích. Tia laser đƣợc truyền qua nƣớc,
do vậy tránh cho tia làm đột biến phôi. Blanchet và cộng sự là những ngƣời
đầu tiên sử dụng hệ thống này [26]. Hiện nay, hệ thống này đƣợc tinh chỉnh
về độ an toàn rất tốt và hiệu quả cao để sử dụng cho phôi ngƣời. Khi có hệ
thống này, những ngƣời làm kỹ thuật có thể thực hiện sinh thiết phôi để lấy tế
bào làm chẩn đoán trƣớc sinh dễ dàng hơn, ít gây tổn thƣơng phôi hơn.
Hình 1.7. AH bằng tia laser tiếp xúc