Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học các Stetoid phân cực từ loài sao biển Archaster Typicus Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN HÓA HỌC CÁC HỢP CHẤT THIÊN NHIÊN
TRỊNH THỊ THU HƯƠNG
“NGHIÊN CỨU HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍNH SINH HỌC
CÁC STEROID PHÂN CỰC TỪ LOÀI SAO BIỂN
ARCHASTER TYPICUS VIỆT NAM”
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2014
1
MỞ ĐẦU
Biển và Đại dương chiếm hơn 70% bề mặt trái đất, chứa đựng nguồn tài
nguyên sinh vật biển đa dạng với gần 300.000 loài thực vật, động vật và vi sinh vật
khác nhau...Sự đa dạng này đã biến biển và đại dương trở thành nguồn tài nguyên
thiên nhiên vô cùng quý báu, cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp
thiết yếu như thực phẩm, mỹ phẩm, hóa dược…Tuy nhiên, trước đây, giá trị cung
cấp dược liệu và các chất có hoạt tính sinh học cao cho ngành hóa dược của nguồn
tài nguyên này còn chưa được quan tâm đúng mức. Ngày này, nhờ sự hỗ trợ của các
kỹ thuật tiên tiến, rất nhiều hợp chất từ sinh vật biển đã được phân lập, xác định cấu
trúc và thử hoạt tính sinh học. Trong số đó, nhiều hợp chất thể hiện các hoạt tính
sinh học phong phú, có thể tạo ra hoặc cung cấp mẫu hình cho các thế hệ thuốc mới,
cũng như các sản phẩm khác phục vụ cho cuộc sống [1-3].
Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với hơn 1 triệu km2
vùng biển, có khí hậu
nhiệt đới gió mùa, mật độ cửa sông dày đặc là những điều kiện lý tưởng cho hệ sinh
vật biển đa dạng về chủng loại và giàu về trữ lượng. Ngay từ những năm 1970 đã có
một vài công trình nghiên cứu về các hợp chất thiên nhiên từ sinh vật biển. Tuy
nhiên, so với nguồn tiềm năng sinh vật biển ở nước ta thì đến nay những công trình
nghiên cứu trong nước vẫn quá ít và tản mát, đặc biệt là những nghiên cứu về ngành
Da Gai.
Các sinh vật thuộc ngành Da Gai (Echinoderm) bao gồm năm lớp: Sao Biển
(Asteroidea), Sao Biển Rắn (Ophiuroidea), Cầu Gai (Echinoidea), Hải Sâm
(Holothuria) và Huệ Biển (Crinoidea), là một trong những nguồn cung cấp dồi dào
các steroid phân cực. Các hợp chất steroid phân cực này có cấu trúc rất đa dạng và
thể hiện nhiều hoạt tính sinh học thú vị khác nhau như: kháng vi khuẩn, kháng nấm,
kháng viêm, giảm đau, giảm huyết áp, chống khối u, chống vi rút, tan máu, tác động
đến sự vận chuyển tín hiệu thần kinh...[8, 11, 22, 26, 27, 69, 77, 107]. Lớp chất
2
steroid phân cực từ sao biển đã và đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học
Nga, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Italia. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có
công trình nào nghiên cứu riêng về lớp chất này.
Với mục đích tìm kiếm các hợp chất có hoạt tính sinh học từ sinh vật biển
thuộc ngành Da gai nhằm tạo cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực
phát hiện và phát triển dược phẩm mới, luận án này tập trung nghiên cứu nhóm chất
steroid phân cực từ loài sao biển Archaster typicus, một loài sao biển rất phổ biển ở
vùng biển Việt Nam, thuộc lớp sao biển Asterodea, ngành Da gai Echinodermata.
Nội dung của luận án bao gồm:
• Phân lập các hơp chất steroid phân cực từ loài sao biển Archaster
typicus của Việt Nam.
• Xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được.
• Thử nghiệm một số hoạt tính sinh học của các chất phân lập được.
3
CHƯƠNG I – TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về sao biển (Asteroidea)
Sao biển là loài động vật không xương sống, thuộc ngành Da gai
(Echinodermata, lớp Asteroidea) sống ở đáy biển. Cơ thể dẹp theo chiều lưng bụng,
có hình sao và có đối xứng bậc 5 hay nhiều cánh xếp xung quanh. Cánh sao biển dài
1- 1,5 cm, có khi tới 80 cm. Lỗ miệng có màu sặc sỡ, khi bò trên giá thì miệng
hướng về phía dưới. Bên trong quanh miệng là vòng ống nước, từ đó phát ra năm
ống nước nhánh hình nan quạt tỏa ra năm cánh, mỗi ống nước nhánh có hai dãy
chân ống. Sao biển đi được nhờ hoạt động của các chân ống một cách nhịp nhàng,
tốc độ di chuyển rất chậm từ 5 đến 10 cm trong 1 phút [2].
Lớp Asteroidea được chia thành 7 bộ (order): Brisingida, Forcipulatida,
Notomyotida, Paxillosida, Spinulosida, Valvatida và Velatida. Đến nay đã thống kê
được có có khoảng 1800 loài sao biển phân bố ở tất cả các đại dương trên thế giới.
Những nơi có nhiều sao biển phải kể đến các vùng biển Ôxtrâylia, Đông Thái Bình
Dương và Bắc Mỹ, đặc biệt vùng biển nhiệt đới Ấn Độ-Thái Bình Dương là nơi tập
trung đại đa số các loài sao biển [2, 6]. Ở Việt Nam có khoảng 60 loài sao biển khác
nhau, phân bố dọc bờ biển từ Bắc đến Nam.
Theo tác giả Lamarck (1816) loài sao biển Archaster typicus thuộc họ
Archasteridea trong bộ Valvatida. Bộ Valvatida bao gồm 14 họ: Acanthasteridea,
Archasteridae, Asterinidae, Asterodiscididae, Chaetasteridae, Ganeriidae,
Leilasteridae, Goniasteridae, Mithrodidae, Odontasteridae, Ophidiasteridae,
Oreasteridae, Poraniidae, Pseudarchasteridae, với hàng trăm loài khác nhau.
Trong số đó, Archasteridea là một họ nhỏ với duy nhất một chi ArchasterTM
gồm 3
loài: Archaster angulatus, Archaster laevis và Archaster typicus.
Cho đến nay, trên thế giới đã có khoảng 80 loài sao biển khác nhau được
nghiên cứu về thành phần hóa học [14, 33, 40, 51, 77, 80]. Một số loài được quan
tâm nghiên cứu như Asterina pectinifera [26, 104, 115], Linckia laevigata [14, 24,
25, 36, 37, 43, 46, 48, 86, 87, 114]. Trong số hơn 200 hợp chất thu được có đến trên
4
50% các chất thuộc lớp chất steroid, trên 20% là các ceramide. Ngoài ra, sao biển
còn chứa một số hợp chất khác như: ancaloit, axit béo…Qua đó cho thấy, steroid và
ceramide là những lớp chất chính có trong thành phần hóa học của Sao biển. Các
hợp chất ceramide có đường (cerebroside) từ sao biển thường mang hoạt tính gây
độc tế bào, kháng khuẩn, kháng nấm...Cho đến nay, vai trò sinh học của các
cereboside vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Người ta cho rằng, những hợp chất này có
thể tham gia vào các quá trình truyền tín hiệu màng tế bào, sinh trưởng và biệt hóa
tế bào, duy trì hình thái và chức năng của tế bào...Về mặt sinh thái học, các
cerebroside từ biển thể hiện khả năng chống hà rất tốt, một loài thường gây rất
nhiều khó khăn cho tàu thuyền và các phương tiện đánh cá [99].
Lớp chất steroid từ sao biển, đặc biệt nhóm steroid phân cực, thu hút được
nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới bởi những hoạt
tính thú vị của chúng, như: hoạt tính gây độc tế bào, chống ung thư, chống virut, tan
máu, tăng sinh các tế bào thần kinh, kháng viêm, giảm đau, hạ huyết áp...Một vài
hợp chất khác lại thể hiện có hoạt tính kháng vi khuẩn gram dương rất tốt. Trong
vài năm trở lại đây, một số lượng lớn các hợp chất thuộc lớp chất này được phân lập
từ các loài sao biển. Các steroid phân cực thường được chia làm 4 loại: polyhydroxy
steroid, steroid sulfate, glycoside polyhydroxy steroid và các asterosaponine. Trong
đó, các glycoside polyhydroxy steroid và các asterosaponine thường thấy ở các loài
thuộc chi Echinaster và các polyhydroxy steroid được thấy có mặt ở hầu hết các
loài sao biển đã được nghiên cứu [28]. Nghiên cứu về mối tương quan giữa cấu trúc
và hoạt tính chỉ ra rằng, hoạt tính của các steroid có đường phụ thuộc chủ yếu vào
số lượng các tiểu phân đường và cấu tạo của mạch nhánh. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng
của cấu trúc các loại đường và phần anglycon đến hoạt tính vẫn chưa được làm sáng
tỏ. Gần đây các nhà khoa học Nga đã tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa cấu trúc
của các polyhydroxy steroid với hoạt tính độc tế bào và tan máu. Tám hợp chất từ
bốn loài sao biển khác nhau đã được thử nghiệm hoạt động làm tan hồng cầu chuột
và gây độc giao tử (trứng và tinh trùng) của loài cầu gai Strongylocentrotus
intermedius. Các tác giả đã phát hiện ra rằng, hoạt tính gây độc tế bào của một số
hợp chất tăng tỷ lệ nghịch với số lượng nhóm OH ở phần aglycon. Mặt khác, có mối
5
liên hệ giữa độc tính tế bào và hoạt động làm tan máu của các steroid thử nghiệm.
Nồng độ muối, nhiệt độ và giá trị pH là yếu tố quan trọng quyết định hoạt động làm
tan máu của các steroid gắn đường này. Những nghiên cứu khoa học cũng chỉ ra
rằng những steroid này đóng vai trò là thành phần màng tế bào của các loài sao
biển, có đóng góp cho việc bền hóa màng kép tế bào [28, 95, 104]. Gần đây, mười
hợp chất polyhydroxy steroid, kí hiệu là certonardoside A-J, đã được phân lập từ
loài sao biển Certonadoa semiregularis ở đảo Komun, Hàn Quốc. Các hợp chất này
đều thể hiện phổ kháng virut rộng như HIV, HSV, CoxB, EMCV và VSV, trong số
đó, hai hợp chất certonardoside I và J thể hiện hoạt tính mạnh nhất. Hợp chất
ganglioside, LMG-4, phân lập từ loài Luidia maculata có hoạt tính gây độc đối với
tế bào PC12 trong sự có mặt của các yếu tố tăng trưởng thần kinh NGF [6]. Ngoài
ra còn có một số hợp chất polyhydroxy steroid gắn đường thể hiện hoạt tính kháng
một số dòng vi khuẩn và hoạt tính gây độc tế bào tương đối tốt.
Bảng 1.1: Tổng hợp hoạt tính sinh học của các hợp chất steroid phân cực
STT Hoạt tính
sinh học
Nhóm chất Sao biển chứa
hợp chất có hoạt
tính
TLTK
Polyhydroxy steroid
steroid sulfate
Glycoside polyhydroxy
steroid
1 Hoạt tính gây
độc tế bào
Asterosaponine
Certonardoa
semiregularis;
Hippasteria
phrygiana; Luidia
quinaria; Anthenea
chinensis
[16], [21],
[62], [79],
[102], [108-
111],
Polyhydroxy steroid
steroid sulfate
Glycoside polyhydroxy
steroid
2 Hoạt tính
kháng khuẩn,
kháng nấm
Asterosaponine
Certonardoa
semiregularis;
Anasterias minuta;
[12], [13],
[110], [111]
3 Hoạt tính tán Polyhydroxy steroid Henricia [33], [40],
6
Glycoside polyhydroxy
steroid
huyết
Asterosaponine
leviuscula; Culcita
novaeguineae
[67], [101]
4 Hoạt tính
neuritogenic
Glycoside polyhydroxy
steroid
Linckia laevigata; [23], [24],
[46], [81],
[85-87]
Những thông tin trên cho thấy khả năng ứng dụng tiềm tàng của sao biển nói
chung và đặc biệt về lớp chất steroid phân cực từ sao biển nói riêng trong công
nghiệp dược phẩm. Các hợp chất này có cấu trúc vô cùng đa dạng và luôn mang
những đặc điểm riêng biệt. Nước ta có nguồn tài nguyên sinh vật biển rất phong
phú, nhưng đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về hóa học và hoạt
tính sinh học của lớp chất steroid phân cực từ sao biển. Do đó, nhằm tạo cơ sở cho
những nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực phát hiện và phát triển dược phẩm mới,
trong luận án này chúng tôi đặt ra mục tiêu nghiên cứu thành phần hóa học và khảo
sát hoạt tính sinh học của lớp chất steroid phân cực từ loài sao biển Archaster
typicus sinh sống tại vùng biển Việt Nam.
1.2. Những nghiên cứu trước đây về lớp chất steroid phân cực có trong các
loài sao biển
1.2.1. Các nghiên cứu về thành phần hóa học
Từ các kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học của các loài sao biển cho
thấy, lớp chất chính có trong sao biển là steroid. Dựa vào cấu trúc hóa học của các
steroid phân lập được người ta chia chúng thành các nhóm như sau: polyhydroxy
steroid, steroid sulfate, glycoside polyhydroxy steroid và các asterosaponine [96,
105].
1.2.1.1. Các hợp chất Polyhydroxy steroid
Trước năm 2000 đã có một số công bố về nhóm chất này từ sao biển [90].
Trong vài năm gần đây, khoảng 50 hợp chất polyhydroxy steroid mới đã được phân
lập từ nguồn tài nguyên này.
7
Năm 2003, từ loài sao biển Certonardoa semiregularis thu thập được ở gần
đảo Komun, Hàn Quốc, Wang và cs đã phân lập được 13 hợp chất polyhydroxy
steroid mới là certonardosterol A-M (1-13) [111]. Mạch nhánh của các hợp chất 9,
10 lần đầu tiên được tìm thấy trong các hợp chất sterol thiên nhiên [108, 111]. Cũng
từ loài này, vào năm 2004 nhóm nghiên cứu đã tách được thêm được 23 hợp chất
polyhydroxy steroid mới 14-36. Trong số đó, có năm hợp chất 14,15,19-21 thuộc
nhóm tetrol, là một nhóm chất rất hiếm [107, 108]. Các hợp chất steroid 25-31 có
chứa nhóm xeton tại vị trí C-8 trong khung steroid cũng là cấu trúc rất ít gặp ở sao
biển. Các hợp chất 28-31 ở vị trí C-8/C-14 có chứa một liên kết đôi [108]. Cấu trúc
đặc biệt này cũng được tìm thấy trong một số loài hải miên. Các hợp chất 9, 10, 34
có chứa mạch nhánh rất đặc biệt không chỉ ở sự ankyl hóa hay đề ankyl hóa mà còn
ở vị trí bất thường của các nhóm –OH.
8
Năm 2004, từ loài sao biển Astropecten triseriatus thu thập từ vùng biển FiJi,
nhóm nghiên cứu của Levina EV và cộng sự đã phân lập được một polyhydroxy
steroid liên hết với triseramide 37 [63]. Hợp chất này mới chỉ được tìm thấy trong
một số loài thực vật bậc thấp. Các hợp chất steroid tương tự cũng được nhóm
nghiên cứu Finamore E và cộng sự tìm thấy trong loài sao biển Myxoderma
platyacantum [19].
Từ năm 2002-2005, nhóm nghiên cứu Stonik và cộng sự đã phân lập được một
dãy các hợp chất polyhydroxy steroid từ các mẫu sao biển của vùng Viễn Đông, LB
Nga [60, 66]. Từ hai loài sao biển Henricia sanguinolenta và H.leviuscula đã phân
lập được 2 hợp chất steroid phân cực mới, kí hiệu 38-39 [60, 67]. Trong đó, hợp
chất tetrol 38 có cấu trúc phần nhân 3β,6β,15β-trihydroxy steroid rất hiếm thấy còn
hợp chất 39 có chứa nhóm xeton ở vị trí C-15 giống như các hợp chất 25-31. Từ
loài sao biển Henricia tumida, nhóm nghiên cứu này cũng đã phân lập được 2 hợp
chất polyhydroxy steroid mới, kí hiệu 40-41 [66].
Từ loài sao biển Hippasteria phrigyana đã phân lập được phrygiasterol 42
[62]. Đây là hợp chất polyhydroxy steroid chứa vòng xyclopropan lần đầu tiên được
phân lập từ loài da gai. Nhóm hợp chất này có mối quan hệ với các sterol tự do
được tìm thấy trong Hải miên, San hô cứng và san hô mềm.
Từ dịch chiết MeOH của loài sao biển Henricia leviuscula đã phân lập được 2
polyhydroxy steroid 43-44 có chứa 2 nhóm –OH ở vị trí C23, C24 và C24, C25
của phần mạch nhánh [20, 33, 72, 94].
9
Cũng từ loài sao biển này, gần đây, nhóm nghiên cứu Kicha A.A. và cs đã
phân lập thêm được hợp chất 45. Một hợp chất polyhydroxy steroid khác 46 có
chứa 15,16-isopropylidenedioxy được phân lập từ loài sao biển Asterina pectinifera
ở vùng DaMaDao, Qungdao, Trung Quốc [115]. Tuy nhiên, có thể hợp chất 46 là
sản phẩm của phản ứng với aceton trong quá trình chiết tách.
10
Sự hiện diện một loạt các dẫn xuất polyhydroxy steroid trong các loài sao biển
khác nhau cho thấy sự đa dạng về cấu trúc của nhóm chất này trong lớp Sao biển
Asteroidea cũng như tầm quan trọng của chúng đối với sự tồn tại của sao biển.
1.2.1.2. Các hợp chất steroid sulfate
Năm 2001 từ 2 loài sao biển Leptasterias alaskensis asiatica và L. fisheri thu
thập được ở vùng Viễn Đông, nhóm nghiên cứu người Nga đã phân lập được ba
dẫn xuất cholesterol sulfate [41]. Hợp chất cholesterol sulfate (47) được tìm thấy là
một sterol sulfate chủ yếu trong dịch chiết từ 2 loài sao biển Leptasterias alaskensis
asiatica và L. fisheri với hàm lượng tương ứng là 53,4% và 37,8%, tuy nhiên 5αcholestan-3β-ol sulfate (48) (24,3 và 28,2%) và 5α-cholestan-7-ene-3β-ol sulfate
(49) (11,2 and 20,0%) cũng được xem như là thành phần nổi trội của 2 loài sao biển
này.
Từ dịch chiết của loài sao biển Lethasterias nanimensis chelifera đã phân lập
được một cặp ion rất độc đáo có tên là alkaloid steroid bao gồm một cation alkaloid
và một anion steroid đã được phân lập bằng phương pháp sắc ký lỏng pha đảo [50].
Cấu trúc của chúng được xác định là 1-methyl-6,7-dihydroxy-1,2,3,4-
tetrahydroisoquino-linium salts of asterone sulfate (50), isoasterone sulfate (51) và
tornasterol A sulfate (52). Tiếp tục nghiên cứu về loài sao biển này, nhóm tác giả đã
phân lập được rất nhiều hợp chất sulfate steroid khác (53-58) trong đó có 3 hợp chất
mới là 54, 56, 57 [44]. Các steroid 53-55 được xác định là muối sulfate tương ứng
của các hợp chất asterone sulfate, isoasterone sulfate và tornasterol A sulfate. Các
hợp chất 56-58 được chứng minh là muối tyrammonium của các sulfate steroid
tương ứng.
11
Từ loài sao biển Asterias amurensis rất phổ biến ở Trung Quốc đã phân lập
được nhiều hợp chất muối sulfate đã biết, bao gồm: cholesterol sulfate (47),
asterone sulfate (53), 24,25-dihydromarthasterone sulfate (59) và tornasterol A
sulfate (55), 3β-O-sulfo-6α-hydroxy-cholesta-9(11),20(22)-dien-23-one (60) và 3βO-sulfo-6α-hydroxy-ergost-9(11)-en-23-one (61) [69].
Một nhóm khác của monosulfate steroid mới được đặc trưng bởi các hợp chất
polyhydroxy steroid có chứa thêm một nhóm sulfate ở các vị trí khác nhau trong
nhân steroid và trên mạch nhánh cũng được tìm thấy trong nhiều loài sao biển. VD
12
như: Từ loài sao biển Henricia leviuscula đã phân lập được 2 hợp chất mới (62-63)
với nhóm sulfate ở mạch nhánh [33]. Từ 2 loài sao biển Hippasteria phrigyana [58]
và Trofodiscusuber [61] cũng đã phân lập được 2 hợp chất polyhydroxy steroid
mới với nhóm sulfate ở nhân tại các vị trí lần lượt là C6, C15.
Từ loài sao biển Ctenodiscus crispatus ở vùng biển Thái Bình Dương thu được
4 hợp chất polyhydroxy steroid sulfate (62,66-68) có chứa nhóm OH ở vị trí C-26
[51]. Hợp chất 66 là một sulfate hexaol đã biết có cấu hình tuyệt đối tại C-24, C-25
là (24R, 25R), trong khi đó hợp chất 67 là đồng phân quang học của hợp chất 66 với
có cấu hình tại C24,C25 là (24R, 25S) hoặc (24S,25R) được xác định là một sulfate
hexaol mới. Hợp chất 6-O-Sulfated heptaol (69) được phân lập từ loài sao biển
Hippasteria kurilensis [45].
Từ dịch chiết EtOH của loài sao biển Pteraster pulvillus thu thập ở vùng biển
Viễn Đông đã phân lập được 2 hợp chất disulfate steroid mới (70,71) [34] và hai
hợp chất muối sulfate steroid rất hiếm gặp là (20R)-5α-cholestane-3α,21-diol 3,21-
24R, 25S hoặc 24S, 25R 68