Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Hiệu Lực Một Số Hoạt Chất Chiết Suất Từ Nguyên Liệu Thực Vật Thàn Mát Củ Nâu Phòng Chống Mối Gây Hại Lâm Sản
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƢỜNG ®ai häc l©m nghiÖp
khoa chÕ biÕn l©m s¶n
---***---
NGHI£N CøU HIÖU LùC MéT Sè HO¹T CHÊT CHIÕT SUÊT Tõ
NGUY£N LIÖU THùC VËT ( THµN M¸T, Cñ N¢U) PHßNG CHèNG
MèI G¢Y H¹I L¢M S¶N
Gi¸o viªn h-íng dÉn : T.s NguyÔn thÞ bÝch ngäc
Sinh viªn thùc hiÖn : trÇn M¹nh Hµ
Kho¸ häc : 2004 – 2008
Hµ t©y, 2008
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mƣa
nhiều, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây rừng. Hệ thực vật Việt
Nam là nơi tiếp giáp ba luồng giao lƣu thực vật, luồng thứ nhất từ phía Nam đi
lên gọi là nhân tố Malaixia – Inđônêsia, tiêu biểu là họ Dipterocarpacea có
trung tâm phát sinh là Borneo; luồng thứ hai từ phía Tây sang gọi là nhân tố Ấn
Độ - Miến Điện, gồm các loài đặc trƣng cho vùng khí hậu khô hạn; luồng thứ
ba từ Tây Bắc xuống, chủ yếu là các loài thuộc vĩ độ ôn đới của vùng Nam
Trung Quốc. Do đó, gỗ rừng Việt Nam rất phong phú về chủng loại, đa dạng về
số lƣợng, mang lại lợi ích to lớn về kinh tế cho nƣớc nhà.
Tuy nhiên, khí hậu nhiệt đới cũng là môi trƣờng thuận lợi cho sự sinh
trƣởng, phát triển của sinh vật gây hại lâm sản nhƣ nấm mốc, mối mọt… Sức
phá hại của chúng là vô cùng mạnh mẽ, gây thiệt hại không nhỏ về mặt kinh tế,
văn hoá. Đặc biệt là mối, bởi sự phong phú về chủng loại, phạm vi phân bố
rộng, hình thức phá hại đa dạng.
Trƣớc thực trạng đó, công tác bảo quản lâm sản trở thành một nhiệm vụ
hết sức thiết yếu. Nhiều loại thuốc hoá học đã đƣợc nghiên cứu tổng hợp thành
công với ƣu điểm nổi bật là hiệu lực bảo quản cao, có tác dụng phòng trừ sinh
vật hại lâm sản rất tốt. Song, nó lại gây ô nhiễm môi trƣờng, ảnh hƣởng tiêu
cực đến sức khoẻ con ngƣời và hệ động thực vật. Đáp ứng tiêu chí an toàn với
môi trƣờng, một hƣớng đi mới đã đƣợc mở ra trong lĩnh vực bảo quản, đó là
việc nghiên cứu thuốc bảo quản có nguồn gốc từ thực vật, thân thiện hơn với
môi trƣờng.
Để góp phần đánh giá tiềm năng sử dụng nguồn nguyên liệu thực vật của
nƣớc ta làm thuốc bảo quản lâm sản, dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị
Bích Ngọc, tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu hiệu lực một số hoạt chất chiết suất từ nguyên liệu thực
vật (Thàn mát, củ Nâu) phòng chống mối gây hại lâm sản”.
PHẦN I
TỔNG QUAN
I.1. Sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu sử dụng nguồn nguyên liệu thực
vật làm thuốc bảo quản lâm sản
I.1.1. Lịch sử phát triển ngành bảo quản lâm sản
Gỗ rừng trồng sinh trƣởng, phát triển nhanh nhƣng rất dễ bị các tác nhân
sinh vật và vi sinh vật gây hại trong một thời gian ngắn. Đặc biệt, ở những
nƣớc có khí hậu nhiệt đới gió mùa nhƣ nƣớc ta, sinh vật gây hại lâm sản hoạt
động mãnh liệt nên tổn thất về lâm sản do chúng gây ra rất nặng nề. Vì vậy,
việc áp dụng các biện pháp bảo quản cho lâm sản nhằm nâng cao tuổi thọ và
giá trị sử dụng của chúng là đòi hỏi ngày càng trở nên bức thiết.
Việc nghiên cứu tìm tòi, áp dụng các biện pháp nhằm làm tăng thời gian
sử dụng lâm sản luôn là vấn đề đƣợc con ngƣời quan tâm. Ngay từ thời kì sơ
khai, ngƣời Ai Cập cổ đại đã biết dùng nhựa cây để bảo vệ gỗ cho công trình
xây dựng. Ngƣời dân của một số nƣớc châu Á, từ xa xƣa đã biết một phƣơng
pháp bảo quản độc đáo và hiệu quả đó là ngâm tre, gỗ trong bùn ao.
Tuy nhiên, việc sử dụng hoá chất để bảo quản nhằm kéo dài tuổi thọ lâm
sản mới ra đời cách đây hơn 300 năm. Năm 1947, Emerson đã đƣa ra đề xuất
sử dụng chế phẩm dạng dầu để bảo quản gỗ. Đến thế kỷ 19, một loạt hoá chất
đã đƣợc sử dụng để tẩm gỗ nhƣ HgCl2 (1805); ZnCl2 (1815); CuSO4 (1837);
dầu nhựa than đá Creosote (1838)… Trong những thập niên trở lại đây, danh
mục hoá chất dùng cho bảo quản lâm sản ngày càng đƣợc bổ sung phong phú
[1].
Ở Việt Nam, phải đến những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, công
tác nghiên cứu về kỹ thuật bảo quản gỗ và những vấn đề khoa học liên quan
mới đƣợc triển khai có hệ thống tại Phòng Bảo quản lâm sản_Viện nghiên cứu
Lâm Nghiệp dƣới sự lãnh đạo và hƣớng dẫn trực tiếp của cố kỹ sƣ Nguyễn Thế
4
Viễn - một Việt kiều yêu nƣớc, ông đã tự nguyện xa gia đình ở Pháp,
mang tri thức bảo quản gỗ của châu Âu về Việt Nam đặt nền móng đầu tiên cho
lĩnh vực nghiên cứu bảo quản lâm sản của nƣớc ta.
Cùng với sự phát triển của đất nƣớc, các hoạt động trong nghiên cứu bảo
quản lâm sản đã đƣợc chú trọng. Các hƣớng nghiên cứu của lĩnh vực bảo quản
lâm sản gồm: Nghiên cứu cơ bản về sinh vật gây hại lâm sản và các phƣơng
pháp phòng trừ; nghiên cứu về kỹ thuật ngâm tẩm bảo quản lâm sản; nghiên
cứu đề xuất các loại chế phẩm bảo quản lâm sản đã đƣợc tiến hành tƣơng đối
đồng bộ và các kết quả nghiên cứu đã nhanh chóng đƣợc chuyển giao vào sản
xuất, mang lại lợi ích kinh tế - xã hội vô cùng to lớn.
I.1.2. Sự ra đời và phát triển của thuốc bảo quản nguồn gốc thực vật
Trong quá trình phát triển, các hoá chất có tính độc cao đối với sức khoẻ
con ngƣời và môi trƣờng đã dần bị loại bỏ. Do đó, việc tìm kiếm thay thế bằng
các hợp chất khác ít độc hại mà vẫn có hiệu quả bảo quản cao là cần thiết.
Từ thập kỷ 80, ngƣời ta đã phát hiện trong thành phần hoa Cúc dại
(Chrysamthemum cineraefonium và Chrysamthemum roseum) có 6 este độc đối
với sâu hại cây trồng. Đó là các nhóm pyrethrin I và II (chiếm 73%); cinerin I
và II; Jasmolin I và II. Chúng có những đặc điểm nhƣ:
- Lƣợng hoạt chất sử dụng thấp.
- Có tính chọn lọc cao, ít độc với thiên địch có ích.
- Tan nhanh trong lipit và lipoprotein nên có tác dụng gây độc nhanh và
có tác dụng xua đuổi côn trùng.
- Ít độc với con ngƣời và động vật, phân huỷ nhanh nhƣng rất độc đối
với động vật thuỷ sinh [5].
Tuy nhiên, do số lƣợng hoa cúc dại trong tự nhiên rất hạn chế, nên các
nhà khoa học đã tổng hợp ra nhiều dẫn xuất pyrethrin bằng con đƣờng hoá học
có hiệu lực trừ sâu còn cao hơn so với các este tự nhiên, gọi chung là các
Pyrethroit. Trong số các hợp chất Pyrethroit, đƣợc sử dụng nhiều nhất làm hoạt