Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu biến đổi hình thái cấu trúc phôi người ngày 3, ngày 5 trước đông lạnh và sau rã đông bằng kỹ thuật thủy tinh hóa
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
ĐOÀN THỊ HẰNG
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI HÌNH THÁI CẤU TRÚC
PHÔI NGƯỜI NGÀY 3, NGÀY 5 TRƯỚC ĐÔNG LẠNH
VÀ SAU RÃ ĐÔNG BẰNG KỸ THUẬT THỦY TINH HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
ĐOÀN THỊ HẰNG
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI HÌNH THÁI CẤU TRÚC
PHÔI NGƯỜI NGÀY 3, NGÀY 5 TRƯỚC ĐÔNG LẠNH
VÀ SAU RÃ ĐÔNG BẰNG KỸ THUẬT THỦY TINH HÓA
Chuyên ngành: Mô Phôi thai học
Mã số: 62.72.01.03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hướng dẫn Khoa học: 1. PGS.TS. QUẢN HOÀNG LÂM
2. GS.TS. NGUYỄN ĐÌNH TẢO
HÀ NỘI - 2013
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau trường hợp mang thai đầu tiên được thực hiện từ phôi trữ lạnh năm
1983 đến nay, kỹ thuật đông lạnh phôi đã trở thành phổ biến ở nhiều trung tâm
thụ tinh trong ống nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy tỷ lệ phôi làm tổ, cũng như tỷ lệ có thai của chuyển phôi đông lạnh thấp hơn
so với chuyển phôi tươi, vì ít nhiều quá trình trữ lạnh cũng làm ảnh hưởng đến
chất lượng phôi. Nhiều nghiên cứu trên thế giới nhằm nâng cao tỷ lệ sống của
phôi sau rã đông, nâng cao tỷ lệ có thai của chuyển phôi đông lạnh. Các kỹ thuật
trữ lạnh cũng được cải tiến, được chia thành 2 nhóm chính: hạ nhiệt độ chậm
(slow-freezing) và kỹ thuật thuỷ tinh hoá (Vitrification).
Thủy tinh hóa là quá trình làm lạnh mẫu noãn hoặc phôi với thời gian rất
nhanh. Trong suốt quá trình hạ nhiệt độ, toàn bộ khối vật chất bên trong và bên
ngoài tế bào chuyển thành dạng kính (glass-like), đặc biệt không có sự hình
thành tinh thể đá bên trong mẫu tế bào, tránh được những tổn thương do tinh thể
đá gây nên. Đây là phương pháp đông lạnh đơn giản dễ thực hiện, tiết kiệm thời
gian, tiết kiệm nguyên liệu và trang thiết bị…đồng thời cho tỷ lệ phôi sống, tỷ lệ
phôi làm tổ cao hơn so với phương pháp đông lạnh chậm. Hiện nay, đông lạnh
bằng thuỷ tinh hoá là một kỹ thuật đang được các trung tâm thụ tinh trong ống
nghiệm trong khu vực và trên thế giới nghiên cứu ứng dụng trong điều trị. Tại
Việt Nam phương pháp này được thực hiện đầu tiên ở bệnh viện phụ sản Từ Dũ
vào tháng 5 năm 2006 và bước đầu thấy kết quả tốt. Trung tâm Công nghệ Phôi
Học viện Quân y bắt đầu thực hiện đông phôi bằng kỹ thuật thuỷ tinh hoá từ
tháng 11/2006.
Đông lạnh phôi có thể tiến hành ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào của
phôi. Đông lạnh phôi ở giai đoạn phôi tiền nhân (ngày 1) sẽ gặp khó khăn trong
việc lựa chọn phôi để đông lạnh và xác định số lượng phôi để rã đông, đông lạnh
phôi ở giai đoạn phôi phân chia (ngày 2 và ngày 3) thường phổ biến nhất, sự lựa
2
chọn phôi trước và sau rã đông dựa vào tiêu chuẩn hình thái rất thuận lợi, các
phôi bào có tính toàn năng nên ít bị ảnh hưởng bởi các phôi bào thoái hóa. Phôi
ở giai đoạn kết dính (ngày 4) là giai đoạn nhạy cảm và khó đánh giá về mặt hình
thái nên thường không đông lạnh ở giai đoạn này. Đông lạnh phôi ở giai đoạn
phôi nang (ngày 5, 6, 7) có lợi thế hơn giai đoạn phôi phân chia vì có rất nhiều tế
bào nên việc thoái hóa một số lượng nhỏ tế bào sẽ không ảnh hưởng đến phôi.
Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng đông lạnh phôi ở ngày 5 có tỷ lệ phôi sống và
tỷ lệ có thai cao hơn so với phôi ở ngày 6 và ngày 7 [68], [71]. Đông phôi ở giai
đoạn phôi nang giúp làm giảm tỷ lệ đa thai, nhưng tỷ lệ tạo được phôi nang chỉ
đạt khoảng 50 - 60%. Hiện nay, còn nhiều ý kiến khác nhau về kỹ thuật đông
lạnh phôi và thời điểm thực hiện đông lạnh. Cơ sở của việc xác định những ảnh
hưởng của qui trình đông lạnh và thời điểm đông lạnh đến hiệu quả của quá trình
đông lạnh phôi chính là việc nghiên cứu đánh giá hình thái cấu trúc phôi trước
đông lạnh và sau rã đông. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu biến đổi hình thái cấu trúc phôi người ngày 3, ngày 5
trước đông lạnh và sau rã đông bằng kỹ thuật thuỷ tinh hóa”.
Mục tiêu:
1. Mô tả sự biến đổi hình thái cấu trúc phôi ngày 3, ngày 5 trước đông
lạnh và sau rã đông bằng kỹ thuật thủy tinh hóa.
2. So sánh tỷ lệ phôi sống, tỷ lệ phôi làm tổ và tỷ lệ có thai của phôi ngày 3
với phôi ngày 5 sau rã đông bằng kỹ thuật thủy tinh hóa.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình vô sinh trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về vô sinh
Vô sinh là tình trạng một cặp vợ chồng không có thai sau một năm chung
sống, giao hợp bình thường, không sử dụng các biện pháp tránh thai nào (WHO,
2000) [7]. Đối với những trường hợp mà người vợ trên 35 tuổi thì thời gian này
chỉ 6 tháng đã được đánh giá là vô sinh.
Vô sinh nguyên phát, còn được gọi là vô sinh loại I: là tình trạng vô sinh
ở những cặp vợ chồng mà người vợ chưa có thai lần nào.
Vô sinh thứ phát, còn được gọi là vô sinh loại II: là tình trạng vô sinh ở
những cặp vợ chồng mà người vợ đã từng có thai trước đó.
Vô sinh nữ là các trường hợp vô sinh nguyên nhân do người vợ. Vô sinh
nam là các trường hợp vô sinh nguyên nhân do người chồng [65], [95]. Những
trường hợp vô sinh không rõ căn nguyên là trường hợp vô sinh mà không tìm
thấy các nguyên nhân gây vô sinh ở cả vợ và chồng [31].
1.1.2. Tình hình vô sinh trên thế giới
Theo Tổ chức y tế thế giới năm 2010, tỷ lệ vô sinh chung trên thế giới
dao động trong khoảng từ 6 – 13%, tùy theo từng quốc gia. Trong đó nhóm vô
sinh biết rõ nguyên nhân chiếm tỉ lệ khoảng 80%, còn lại 20% là vô sinh không
rõ nguyên nhân. Trong số các cặp vô sinh biết rõ nguyên nhân thì tỉ lệ vô sinh nữ
chiếm 40%, vô sinh nam chiếm 40%, còn lại khoảng 20% là vô sinh do cả nam
và nữ [107].
1.1.3. Tình hình vô sinh ở Việt Nam
Theo Nguyễn Viết Tiến (2010), tỷ lệ vô sinh chung trên toàn quốc chiếm
7,7%. Trong đó tỷ lệ vô sinh nguyên phát là 3,9%, vô sinh thứ phát là 3,8%. Tỷ
4
lệ vô sinh ở Việt Nam có sự khác biệt giữa các vùng sinh thái và các nhóm cặp
vợ chồng khác nhau [11].
Xét về đặc điểm phân bố của nguyên nhân dẫn đến vô sinh theo các tác
giả nghiên cứu đưa ra những kết quả khác nhau. Theo nghiên cứu của Trần Thị
Trung Chiến, Trần Văn Hanh, Phạm Gia Khánh và cs. thì nguyên nhân gây vô
sinh nam chiếm khoảng 40,8% trong số các trường hợp vô sinh [1]. Một nghiên
cứu khác của Nguyễn Khắc Liêu và cs. được thực hiện trên 1000 cặp vô sinh tại
bệnh viện phụ sản Trung ương thì tỉ lệ vô sinh nữ chiếm khoảng 54%, và vô sinh
nam chiếm khoảng 36%, còn lại 10% là vô sinh không rõ căn nguyên [7].
Những con số nêu trên cũng phần nào cho thấy thực trạng tình hình vô
sinh không chỉ là vấn đề y học, mà còn ảnh hưởng đến các mặt đời sống xã hội.
1.2. Quá trình thụ tinh và nuôi cấy phôi ở người
1.2.1. Sự thụ tinh ở người
- Sự thụ tinh là sự kết hợp giữa giao tử đực (tinh trùng) với giao tử cái
(noãn) tạo thành hợp tử có bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội đặc trưng của loài.
- Tinh trùng và noãn được thụ tinh trong đĩa cấy (IVF) hoặc tiêm tinh
trùng vào bào tương noãn (ICSI) được đánh giá sau 18 – 20 giờ dựa vào sự hình
thành 2 tiền nhân.
Xét về khía cạnh sinh học, sự thụ tinh liên quan đến 4 bước theo tuần tự sau:
Sự lựa chọn tinh trùng sẽ tham gia quá trình thụ tinh.
Sự xâm nhập của tế bào tinh trùng qua các lớp vỏ của noãn.
Sự gắn kết giữa tinh trùng và màng bào tương của noãn.
Sự hòa hợp nhân dẫn đến việc hình thành bộ nhiễm sắc thể của phôi.
1.2.2. Nuôi cấy phôi
Sau khi noãn và tinh trùng thụ tinh tạo thành phôi, những phôi có 2 tiền
nhân được nuôi cấy trong môi trường IVF, G1 đến ngày thứ 2 và tiếp tục nuôi
cấy trong môi trường G2 từ ngày 3 đến ngày 5.
5
Phôi giai đoạn tiền nhân (2PN – phôi ngày 1) phân cắt phôi theo quy luật
hoàn toàn đều nhưng không đồng thời thành 2 tế bào.
Phôi ngày 2 sẽ có từ 2 – 4 tế bào, hình thái phôi được đánh giá dựa vào số
tế bào, độ đồng đều các phôi bào, tỷ lệ phần trăm các mảnh vỡ bào tương.
Phôi ngày 3 có từ 6 - 8 tế bào, hình thái phôi đánh giá cũng dựa vào số tế
bào, độ đồng đều các phôi bào, tỷ lệ phần trăm các mảnh vỡ bào tương.
Phôi ngày 4 (phôi dâu – morula embryo): các tế bào liên kết chặt chẽ
không còn nhìn thấy ranh giới giữa các tế bào, hoặc đã bắt đầu quan sát thấy
khoang chứa dịch giữa các tế bào.
Phôi ngày 5 (phôi nang – blastocyst embryo): Phôi dãn rộng, màng trong
suốt đã dãn mỏng, khoang chứa dịch lớn, phôi đã có tế bào nụ phôi và lớp tế bào
lá nuôi. Sự đánh giá hình thái phôi dựa vào độ dãn rộng của phôi, đám tế bào bên
trong (nụ phôi), lớp tế bào lá nuôi [39].
Hình 1.1. Các mốc thời gian phát triển phôi từ giai đoạn tiền nhân
đến giai đoạn phôi nang
* Nguồn: Theo Ebner T, 2003 [34].
6
1.3. Lược sử, nguyên tắc, chỉ định và các phương pháp đông lạnh phôi
1.3.1. Lược sử nghiên cứu đông lạnh phôi
Phôi động vật đầu tiên được trữ thành công là phôi chuột vào năm 1972
(trích dẫn từ [20]). Tiếp sau đó, kỹ thuật trữ phôi được phát triển và áp dụng cho
trữ phôi gia súc. Đến năm 1983, phôi người đầu tiên mới được trữ thành công
được báo cáo tại Monash, Úc [96]. Tại Việt Nam, đứa trẻ đầu tiên ra đời từ phôi
trữ lạnh tại Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ năm 2002 [14] .
Trong một thời gian ngắn kỹ thuật đông phôi đã phát triển với các quy
trình đông lạnh được đơn giản và tối ưu hóa. Công nghệ đông lạnh hiện nay có
thể áp dụng để lưu trữ giao tử (noãn, tinh trùng), phôi ở các giai đoạn phát triển
khác nhau (phôi tiền nhân, phôi phân chia, phôi nang) và gần đây là đông lạnh
mô buồng trứng.
Phương pháp đông lạnh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa được Rall và Fahy
thực hiện thành công lần đầu tiên trên phôi bò vào năm 1985 [78]. Kỹ thuật này
được thực hiện rộng rãi trên gia súc vào nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, quy trình
trữ lạnh thủy tinh hóa chỉ được Kuleshova L. ứng dụng đầu tiên trên noãn người
vào năm 1999 và sau đó vài tháng, được thực hiện đầu tiên trên phôi người đang
phát triển ở giai đoạn phôi nang. Ngày 20 tháng 6 năm 1999, em bé đầu tiên trên
thế giới từ phôi đông lạnh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa ra đời [53].
Hiện nay, đông lạnh phôi bằng phương pháp thủy tinh hóa đang là một kỹ
thuật được các trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm lớn trong khu vực và trên thế
giới ứng dụng trong điều trị và đang từng bước thay thế phương pháp hạ nhiệt độ
chậm trước đây. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng không ngừng thực hiện
những kiểm chứng lâm sàng nhằm chứng minh kỹ thuật này thật sự an toàn và
hiệu quả đối với con người.
1.3.2. Nguyên tắc đông lạnh phôi
Nguyên tắc của đông lạnh là làm giảm nhiệt độ của môi trường chứa mẫu
tế bào hay mẫu mô xuống nhiệt độ -196oC. Ở nhiệt độ này, hầu hết các hoạt
động sinh học bên trong tế bào gồm các phản ứng sinh hóa và hoạt đông trao đổi
7
chất đều bị ngừng lại. Do đó, tế bào sống ở dạng tiềm sinh (không phát triển) và
có thể bảo quản trong một thời gian dài . Với điều kiện nhiệt độ thấp, các phân tử
nước, các chất hòa tan trong môi trường xung quanh, các vật chất bên trong tế
bào tồn tại dưới dạng kết hợp (dạng tinh thể và dạng kính) do đó không có bất kỳ
yếu tố nào từ môi trường bên trong cũng như bên ngoài có thể tác động đến tế
bào trong giai đoạn này [8], [57].
Trong quá trình làm lạnh và rã đông, một số thay đổi trong môi trường
chứa tế bào và cả bản thân tế bào có thể ảnh hưởng đến cấu trúc, chức năng, sự
toàn vẹn và khả năng sống của phôi sau khi rã đông.
Tương tự như những tế bào khác, phôi cũng bị ảnh hưởng bởi 3 dạng tổn
thương chính xảy ra ở những khoảng nhiệt độ khác nhau trong suốt quá trình làm
lạnh và rã đông. Trong khoảng nhiệt độ từ 15oC đến -5
oC, nhiệt độ lạnh là yếu
tố chính gây tổn thương tế bào do làm phá hủy những giọt lipit trong bào tương
và các cấu trúc vi ống. Từ -5
oC đến -80 oC, sự hình thành tinh thể đá nội bào và
ngoại bào là nguyên nhân chính gây tổn thương tế bào, tổn thương này được xem
là nguy hiểm nhất đối với các tế bào được trữ lạnh nói chung và đối với phôi nói
riêng. Ở nhiệt độ từ -50 oC đến -150 oC có thể gây ra hiện tượng đứt gãy màng
trong suốt hoặc màng bào tương. Trong quá trình rã đông, những dạng tổn
thương đối với tế bào cũng xảy ra như trong quá trình đông lạnh nhưng theo
trình tự ngược lại. Trong đó quan trọng nhất là khả năng tái kết tinh, hậu quả là
sự xuất hiện lại các tinh thể đá nội bào khi nhiệt độ tăng trên -120 oC. Do đó,
trong quá trình rã đông đa số các tác giả đều cho rằng cẩn phải vượt qua giai
đoạn này một cách nhanh chóng để hạn chế việc gây thêm tổn thương cho tế bào
[8], [57].
1.3.2.1. Những thay đổi bên trong tế bào khi làm lạnh
Để đạt được nhiệt độ trữ, tế bào phải được làm lạnh từ nhiệt độ sống
xuống đến -196oC. Quá trình hạ nhiệt độ này sẽ gây ra những thay đổi trong môi
trường và cả trong tế bào, có khả năng ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của
tế bào được lưu trữ:
8
- Giảm hoạt động của các enzym: nghiên cứu cho thấy khi nhiệt độ giảm
từ 37oC xuống còn -7
oC, hoạt động của enzym giảm 8 lần. Tuy nhiên, ảnh hưởng
của giảm hoạt động enzym lên tế bào vẫn chưa được sáng tỏ
- Giảm độ hòa tan của các khí trong môi trường: bên cạnh các khí hòa tan
theo nồng độ, môi trường nuôi cấy tế bào thường dùng CO2 làm hệ đệm để cân
bằng độ pH trong môi trường. Khi làm lạnh, các khí này không còn ở dạng hòa
tan nữa mà tách ra thành những bọt khí có khả năng làm tổn hại đến tế bào [97].
- Hình thành tinh thể nước đá: nước trong môi trường nuôi cấy khi để lạnh
dưới 0oC (khoảng -5
oC đến -15oC) sẽ dần kết tinh thành những tinh thể nước đá.
Hiện tượng này xảy ra do môi trường có pha chất hòa tan cũng như chất bảo
quản lạnh có nhiệt độ đông đá thấp hơn bình thường. Những tinh thể nước đá
hình thành bên trong cũng như sát bên ngoài tế bào có khả năng gây tổn thương
cơ học lên màng tế bào và các bào quan [97].
- Tăng nồng độ chất hòa tan trong môi trường: đây là hậu quả của sự hình
thành tinh thể nước đá. Khi nước chuyển sang dạng tinh thể tinh khiết, lượng
nước ở thể lỏng sẽ giảm đi. Do đó, nồng độ các chất hòa tan tăng lên gây mất
cân bằng về áp lực thẩm thấu, kéo nước từ bên trong tế bào ra ngoài và làm tổn
thương màng lipoprotein của tế bào [16], [106].
- Tăng nhiệt độ tiềm ẩn: đây cũng là một hậu quả của sự hình thành tinh thể
nước đá. Phân tử nước khi chuyển từ thể lỏng sang thể rắn sẽ làm thoát ra một
lượng nhiệt. Nếu nhiều phân tử nước cùng chuyển sang thể rắn thì lượng nhiệt
thoát ra đủ lớn để làm thay đổi nhiệt độ của môi trường đang từ vài độ âm lên lại
0
oC. Thay đổi này ảnh hưởng đến chức năng của tế bào sau khi rã đông [106].
1.3.2.2.Các biện pháp hạn chế tổn thương tế bào khi làm lạnh
* Sử dụng chất bảo quản lạnh: Các môi trường dùng để đông lạnh hiện nay luôn
sử dụng một hay nhiều hợp chất có tác dụng bảo vệ phôi khỏi hậu quả bất lợi của
quá trình đông lạnh. Các hợp chất này được gọi là chất bảo quản lạnh hay chất
bảo vệ đông lạnh cryoprotectants (CPAs): dimethysulforxide (DMSO),
propylene glycol (PG), ethylene glycol (EG). Các chất bảo vệ đông lạnh nhìn
9
chung có 3 đặc tính: có thể tan được trong nước, có thể qua màng tế bào một
cách bị động, có khả năng hoạt động thay thế nước, chỉ độc đối với tế bào ở
nồng độ cao. Các hợp chất này có khả năng tương tác với nước qua các liên kết
hydro. Các chất này có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp, các nghiên cứu
cho thấy việc sử dụng kết hợp các chất bảo quản lạnh vừa đảm bảo khả năng
thẩm thấu qua màng tế bào cao vừa giúp giảm độc tính của chúng khi sử dụng
riêng lẻ. Khi sử dụng các chất bảo quản lạnh, có hai quá trình sẽ xảy ra [16],
[72]:
+ Sự khử nước: trước khi làm lạnh tế bào phải được khử nước trong môi
trường có chứa chất bảo quản lạnh. Lúc này tế bào sẽ co lại do nước rút ra ngoài
theo gradient nồng độ để hòa loãng môi trường bên ngoài, sau đó tế bào lại trở
về kích thước ban đầu do các CPA thẩm thấu qua màng vào trong tế bào. Khi tế
bào trở lại thể tích bình thường thì quá trình đông lạnh bắt đầu. Các CPA đã thay
thế nước trong tế bào do vậy giảm sự hình thành các tinh thể đá nội bào, giảm
các tổn thương do tinh thể gây nên.
+ Sự bù lại nước: trong quá trình rã đông, phôi được đặt trong môi trường có
nồng độ chất bảo quản thấp hơn, khi đó nước sẽ vào tế bào để pha loãng các
CPA và các CPA thì dần ra khỏi tế bào, nhưng nếu nồng độ các CPA trong môi
trường rã đông quá thấp sẽ làm phôi phồng lên đột ngột và có thể bị ly giải.
Chính vì vậy, quá trình bù nước sẽ được tiến hành từng bước một, nồng độ các
CPA sẽ giảm dần, điều này giúp giảm tốc độ phồng của phôi. Hiện nay, các cải
tiến trong phương pháp cho phép sử dụng môi trường rã đông chứa nồng độ từ
cao xuống thấp các hợp chất không thấm như sucrose. Nồng độ các hợp chất
không thấm ở ngoài tế bào làm đối trọng với nồng độ các CPA bên trong tế bào.
Điều này sẽ thúc đẩy các CPA thoát ra khỏi tế bào nhanh hơn, đồng thời ngăn
chặn được hiện tượng phồng lên quá mức của phôi như đã trình bày ở trên.
* Sử dụng các hợp chất không có tính thấm: có một số hợp chất tuy không có
khả năng xâm nhập tế bào cũng được sử dụng kèm với các CPA trong quá trình
làm lạnh và rã đông, nhằm giúp sự khử nước diễn ra triệt để hơn và bảo vệ tế bào
10
khỏi các tác động có hại của quá trình đông lạnh và rã đông. Các chất này thông
thường là các phân tử đường lớn như: sucrose, raffinose, trehalose, fillcol…[16],
[72].
* Tốc độ làm lạnh và làm ấm
+ Làm lạnh: các quy trình đông lạnh khác nhau sẽ có tốc độ làm lạnh tối
ưu khác nhau. Đối với đông lạnh chậm noãn và phôi động vật có vú, tốc độ làm
lạnh thích hợp nhất là từ 0,3 – 0,5oC/phút, tốc độ này cho phép sự trao đổi nước
qua màng có thể diễn ra trước khi hoàn toàn chuyển thành thể rắn. Đối với đông
lạnh cực nhanh, tốc độ làm lạnh lại cần thiết phải rất nhanh để nước không
chuyển thành dạng kết tinh đá mà chuyển ngay thành dạng kính (dạng thủy tinh).
Hiện nay, với sự cải tiến các dụng cụ chứa phôi, tốc độ làm lạnh cao nhất có thể
đạt được là 23.0000C/phút [16], [72].
+ Làm ấm: trong quá trình làm ấm, nguy cơ tinh thể đá mới sẽ được tạo
thành. Đối với kỹ thuật đông lạnh chậm, cả tinh thể đá mới và tinh thể đá hiện tại
sẽ tăng lên, hiện tượng này được gọi là tái kết tinh đá (recrystallization). Với kỹ
thuật đông lạnh nhanh, hiện tượng này gọi là khử thủy tinh hóa (devitrification).
Như vậy, nguy cơ làm tổn thương tế bào sẽ tăng. Để tránh hiện tượng này, tốc độ
làm ấm sẽ được tính toán để hiện tượng trên không xảy ra theo cơ sở vật lý của
hiện tượng thủy tinh hóa (hình 1.2) [72].
11
Hình 1.2. Thay đổi đặc tính vật lý của dung dịch phụ thuộc nồng độ
và nhiệt độ dung dịch
Tm : nhiệt độ tan Tg : nhiệt độ thủy tinh hóa
Th : nhiệt độ kết tủa dung dịch Td : nhiệt độ khử thủy tinh hóa
* Nguồn: Mullen SF, Critser JK (2007) [72]
1.3.3. Các chỉ định đông lạnh phôi
Đông lạnh phôi là kỹ thuật quan trọng và cần thiết đối với một trung tâm
hỗ trợ sinh sản. Đông lạnh phôi thường được chỉ định cho các trường hợp sau:
Có phôi dư thừa sau chuyển phôi tươi
Quá kích buồng trứng nặng
NMTC không tốt ở ngày chuyển phôi tươi
Không chuyển phôi được do không qua được cổ tử cung
Cho - nhận noãn trong trường hợp chuẩn bị niêm mạc chưa tốt
Hiến phôi Nhiệt độ (0 C)
Nồng độ (%w/w)