Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
DƯƠNG NGUYÊN KIM
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG
GIỮA CHA MẸ VÀ CON
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
BÌNH THUẬN – NĂM 2021
BÌNH THUẬN, NĂM 2021
aisdgasdgso
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG
GIỮA CHA MẸ VÀ CON
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số chuyên ngành: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN
Học viên: DƯƠNG NGUYÊN KIM
Lớp: Cao học luật Khoá 2 Bình Thuận
BÌNH THUẬN - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên
cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Hải An.
Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thông tin từ các Bộ luật, nguồn
sách, tạp chí, tài liệu, các trang thông tin điện tử, báo mạng... được liệt kê trong danh
mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Dương Nguyên Kim
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Chữ được viết tắt
1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 BLHS Bộ luật Hình sự
3 HN&GĐ Hôn nhân và Gia đình
4 TAND Tòa án nhân dân
5 HĐXX Hội đồng xét xử
6 QSDĐ Quyền sử dụng đất
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG CỦA CHA
MẸ ĐỐI VỚI CON.......................................................................................................9
1.1. Về đánh giá khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng con để xác định người trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con...........................................................9
1.2. Về nghĩa vụ và quyền cấp dưỡng của cha mẹ đối với con................................15
1.3. Về liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho con sau khi ly hôn......................22
1.4. Về nghĩa vụ và quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con....24
Kết luận Chương 1..................................................................................................288
CHƯƠNG 2. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG CỦA CON
ĐỐI VỚI CHA MẸ.................................................................................................3029
2.1. Về xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ của con
cái..........................................................................................................................3029
2.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ ................................................................343
2.3. Về xác định nghĩa vụ và quyền của người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
................................................................................................................................376
2.4. Mối liên hệ giữa nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ đối với quyền hưởng di
sản thừa kế và điều kiện của hợp đồng tặng cho tài sản.......................................3938
Kết luận chương 2 ..................................................................................................443
KẾT LUẬN CHUNG................................................................................................454
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ tinh thần được quy định trong Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những công dân tốt…Nhà nước
và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”. Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật
hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) nói riêng và Hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, cuộc sống hiện đại, sự đầy đủ hơn
về vật chất khiến cho đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng có nhiều
thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cũng tồn tại không ít những mặt trái của nó. Một trong số
đó là sự gia tăng các vụ án hôn nhân và gia đình và những giá trị truyền thống của gia
đình đang ngày càng bị mai một, bào mòn. Trong gia đình, mọi quan hệ đều dựa trên
cơ sở tình cảm, nếu như quan hệ vợ chồng là quan hệ dựa trên cơ sở hôn nhân thì
quan hệ giữa cha mẹ và con lại dựa trên quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng mà ở
đó chứa đầy tình cảm yêu thương gắn bó, mang trong đó là ý thức và trách nhiệm.
Người ta có quyền ly hôn vợ hoặc chồng bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của
Tòa án nhưng không ai có quyền chối bỏ trách nhiệm đối với con của mình, hoặc
nghĩa vụ của con cái đối với cha, mẹ.
Hệ thống pháp luật Việt Nam, mà cụ thể là Luật HN&GĐ và văn bản liên quan
đã ngày càng hoàn thiện hơn, có những quy định cụ thể và phù hợp với thực tiễn hơn,
việc giải quyết nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con được quy định khá đầy đủ.
Tuy nhiên trong điều kiện xã hội hiện nay, khi mà trong xã hội có nhiều sự thay đổi
do tác động của nhiều yếu tố; lối sống và nhân cách cá nhân chịu những áp lực, thách
thức bởi nhiều loại thang bậc giá trị; sự đề cao giá trị vật chất; sự thờ ơ, thiếu trách
nhiệm của các bậc cha mẹ đối với con, giữa con cái đối với cha mẹ diễn ra ngày càng
phổ biến… thì các nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ đối với con theo quy định của Luật
HN&GĐ Việt Nam có thực sự được thực thi một cách triệt để? Nội dung cụ thể của
những quy định này như thế nào? Cũng như những mối quan hệ gia đình khác, quan
hệ giữa cha mẹ và con chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các quy phạm đạo đức và quy
2
phạm pháp luật. Bên cạnh sự gắn kết về mặt tình cảm, cha mẹ có rất nhiều quyền và
nghĩa vụ “mang tính tài sản” đối với con.
Thông thường, cha mẹ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Tuy
nhiên, trên thực tế cũng có không ít các trường hợp cha mẹ không có điều kiện để
chung sống cùng con. Không ít những vụ án HN&GĐ Tòa án thụ lý, giải quyết, trong
đó đa số cả cha và mẹ đều mong muốn là người được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng
con chung nhưng không ít những trường hợp cả cha và mẹ đều từ chối việc nuôi
dưỡng, không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hoặc chỉ nhận một phần trách nhiệm
nhỏ không đáp ứng được nhu cầu cần chăm sóc, nuôi dưỡng,...
Ngược lại, nghĩa vụ của con đối với cha mẹ trong thực tiễn vẫn gặp nhiều vấn
đề còn bất cập. Vấn đề này không chỉ chịu sự điều chỉnh của quy phạm đạo đức mà
còn bởi các quy định của pháp luật.
Đây là loại án tranh chấp mà việc giải quyết của cơ quan tiến hành tố
tụng thường gặp nhiều khó khăn, nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa
cha mẹ và con nếu không giải quyết dứt điểm thì sẽ không được bảo đảm. Việc
áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực này trong quá trình xét xử, vì những
lý do khách quan hoặc chủ quan, vẫn còn phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế; trong đó
có những vướng mắc nhất định về mặt pháp luật hoặc việc thi hành phần quyết định,
bản án có liên quan.
Chính vì vậy, việc chọn đề tài: “Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa
cha mẹ và con” làm đề tài luận văn thạc sỹ là thực sự cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn
mà không ít những người tiến hành tố tụng đang gặp phải khó khăn, áp dụng pháp
luật chưa thực sự thống nhất.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con là mảng
đề tài khá quan trọng trong Luật HN&GĐ. Vì vậy, ở các mức độ khác nhau, nhiều đề
tài tập trung nghiên cứu chuyên sâu về lý luận, một số đề tài lại chủ yếu nghiên cứu,
bình luận thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua bình luận, đánh giá các bản án, quyết
định của Toà án, cũng có công trình lại chỉ nghiên cứu một phần nhỏ trong nghĩa vụ
và quyền về chăm sóc, nuôi dưỡng con của cha, mẹ. Có thể liệt kê ra các nhóm công
trình sau:
3
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo:
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam” (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam. Giáo trình đã có những phân tích, đưa các vấn đề pháp lý cơ bản tại
Chương VI “Nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và con”. Có thể nói rằng, công trình
nghiên cứu này đã giải quyết khá thành công về mặt lý luận của chủ đề này, vì vậy
đây là nguồn tài liệu quan trọng đối với tác giả khi triển khai nghiên cứu những vấn
đề lý luận trong luận văn. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này là giáo trình, được
biên soạn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật, vì vậy không
đi vào phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, do vậy nhóm tác giả không
hướng đến việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Nguyễn Hải An (2012), Pháp luật về tặng cho quyền sử dụng đất ở Việt Nam,
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung sách đề cập đến vấn đề tặng cho quyền
sử dụng đất của cha mẹ cho con cái có kèm theo điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng.
Qua đó, tác giả tham khảo quan điểm của nhà khoa học nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
của con cái, vận dụng và đưa ra các đánh giá, kiến nghị tập trung vào phần 2 của luận
văn.
Lê Vĩnh Châu (Chủ biên) (2018), Sách tình huống (Bình luận án) Luật hôn
nhân và gia đình, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. Đây là công trình
không đi sâu vào nghiên cứu về mặt lý luận, mà nhóm tác giả hướng đến việc phân
tích, bình luận, đánh giá, nêu quan điểm cá nhân thông qua các bản án, quyết định
của Toà án. Có thể nói rằng, công trình nghiên cứu này sẽ giúp ích cho tác giả rất
nhiều trong việc tiếp cận, phân tích, bình luận một số vụ việc trong thực tế, cũng như
hướng đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi
dưỡng của cha mẹ với con.
Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam, Tập 1 – Gia đình, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong tài liệu này,
tác giả tập trung phân tích, bình luận, chỉ ra điểm tích cực cũng như hạn chế trong
các điều luật của Luật HN&GĐ năm 2000. Phần nghĩa vụ và quyền giữa cha, mẹ và
con được phân tích, bình luận khá chi tiết. Đây cũng là tài liệu giúp tác giả tham khảo
trong nghiên cứu của mình. Tuy nhiên công trình được nghiên cứu dựa vào Luật
4
HN&GĐ năm 2000, hiện nay hết hiệu lực, do vậy bên cạnh việc kế thừa một số nội
dung vẫn còn tương thích giữa Luật HN&GĐ năm 2000 với Luật HN&GĐ năm 2014,
tác giả cần mở rộng việc nghiên cứu của mình trên nền tảng pháp Luật HN&GĐ hiện
hành.
Nhóm luận văn, luận án:
Nguyễn Văn Vi (2004), Chế định cấp dưỡng trong pháp luật dân sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã
giới thiệu lý luận chung về vấn đề cấp dưỡng và chế định. Tuy nhiên, tác giả tập trung
nghiên cứu về quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, trong đó tại
Chương III tác giả nghiên cứu thực trạng thi hành pháp luật về cấp dưỡng, chỉ ra
những nguyên nhân và giải pháp cho việc hoàn thiện chế định cấp dưỡng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, đây là vấn đề đáng quan tâm cần nghiên cứu trong giai
đoạn thi hành án về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con;
Huỳnh Ngọc Yến Linh (2015), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con theo
pháp luật hôn nhân và gia đình”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả tiếp tục nghiên cứu về lý luận chung nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau ly hôn của tác giả Lê Huyền Kim. Tuy nhiên, tại
thời điểm khóa luận thì Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực pháp luật nên khi nghiên
cứu có nhiều nét tương đồng với luận văn. Tác giả cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận
chung về cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con theo pháp luật HN&GĐ năm 2014 và tác
giả cũng nêu ra thực trạng, giải pháp đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và
con. Đây là phần luận cần nghiên cứu thêm để hoàn thiện trong hoạt động thi hành
án về cấp dưỡng.
Hoàng Thị Thu Huyền (2016), “Nghĩa vụ cấp dưỡng theo Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014”, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học luật Hà Nội. Đây là luận
văn nghiên cứu về nghĩa vụ cấp dưỡng từ Luật HN&GĐ năm 1959 đến năm 2000.
Tác giả đã giới thiệu khá chi tiết về lịch sử hình thành nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối
quan hệ gia đình, cha mẹ, ông bà, con chung và so sánh nghĩa vụ cấp dưỡng một số
nước trên thế giới. Tuy nhiên, luận văn chưa chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và
nghiên cứu chi tiết về nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ năm 2014 để từ đó đề
ra thực trạng và kiến nghị.
5
Về cơ bản, các công trình, bài viết nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con; có ý nghĩa về
mặt lý luận và thực tiễn và là nguồn tài liệu tham khảo phong phú, có giá trị lớn đối
với luận văn của tác giả. Tuy nhiên, hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu sâu
và thực hiện theo hướng ứng dụng về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa
cha mẹ và con trong vụ án HN&GĐ, từ thực tiễn xét xử của Tòa án.
Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và tổng hợp một cách có hệ thống các hồ
sơ, bản án xét xử trong lĩnh vực này từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
HN&GĐ hiện hành về vấn đề nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ
và con trong vụ án HN&GĐ; chỉ ra những tồn tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện
trong thời gian tới là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu và
thực hiện Luận văn của mình.
Với xu hướng các vụ án HN&GĐ hiện nay ngày càng tăng và việc Luật
HN&GĐ năm 2014 được ban hành đi vào trong thực tiễn xét xử tại Tòa án, thì việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc giải quyết nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con là điều rất quan trọng, qua nghiên cứu sẽ thấy
được những tiến bộ của Luật HN&GĐ năm 2014 và những hạn chế, bất cập trong
quá trình áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp khi ly hôn.
Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân các cấp hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha
mẹ và con, chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, luận văn phải phát hiện và giải quyết các vấn đề mang tính hệ thống
và cơ bản các quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi
dưỡng giữa cha mẹ và con;
6
Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra bất cập, vướng mắc của
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
giữa cha mẹ và con;
Thứ ba, đề xuất giải pháp pháp lý hoặc cơ chế thực hiện pháp luật HN&GĐ
trong lĩnh vực này, nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật, phù hợp với
thực trạng, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội hiện nay tại Việt Nam.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành trong lĩnh vực
HN&GĐ về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con, từ thực
tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể là nghiên
cứu chuyên sâu các Điều 69, 71, 72, 81 Luật HN&GĐ năm 2014.
Tiến hành nghiên cứu, phân tích các hồ sơ, bản án của các Toà án nhân dân
các cấp trong lĩnh vực này, chỉ ra những quy định mang tính hiệu quả, cũng như
những quy định còn bất cập, vướng mắc; những nội dung chưa được luật đề cập làm
phát sinh các khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết, để đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, nhằm tiếp cận và làm sáng tỏ về thực tiễn
xét xử, đồng thời nghiên cứu những báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án, các
bản án của Tòa án đã giải quyết các tranh chấp về quyền nuôi con, việc bảo đảm
quyền lợi của con và ngược lại là nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ trong vụ án
HN&GĐ, một số vụ án liên quan đã và đang giải quyết.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thiện luận văn đúng với mục đích, phạm vi đã đặt ra, quá trình nghiên
cứu tác giả đã chọn các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích: Tác giả sử dụng ở mục 1.1, 1.2 để phân tích các nội
dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Mặt khác, tác giả còn sử dụng phương pháp này
trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các quy định của
pháp luật hiện hành và thực tế xét xử tại Tòa án để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật.
7
Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1, 2.2 dùng để so
sánh, đánh giá được áp dụng một cách triệt để giúp phân tích những điểm tiến bộ, hạn
chế của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật vào từng vụ việc.
Phương pháp bình luận bản án: Tác giả sử dụng để phân tích các Bản án, Quyết
định của Tòa án trong xét xử, quan điểm nghiên cứu pháp luật của Tòa án, Viện kiểm
sát để từ đó rút ra những đánh giá về tính đúng đắn của các bản án quyết định về
nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con trong thực tiễn xét xử
tại Tòa án.
Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Phương
pháp tổng hợp được dùng để tổng kết những kiến thức đã được triển khai trước đó,
giúp người nghiên cứu hiểu được vấn đề cần hướng đến. Phương pháp này áp dụng
trong từng vấn đề nội dung luận văn và phần kết luận mỗi chương.
Việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học giúp sáng tỏ đối tượng
cần nghiên cứu, nó có ý nghĩa rất lớn để giải quyết các bất cập, mâu thuẫn và những
quy định chưa rõ của pháp luật, đây là mong muốn lớn nhất của tác giả hướng đến để
hoàn thành luận văn.
5. Kết quả nghiên cứu
Đây là công trình luận văn được nghiên cứu và xây dựng theo định hướng ứng
dụng. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây về thực
tiễn xét xử ở một số địa phương, luận văn sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu về thực
tiễn xét xử tại các cấp Tòa án trong cả nước về vấn đề nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con để đánh giá, làm rõ vấn đề bảo vệ quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con như thế nào.
Chỉ ra được những bất cập, vướng mắc của các quy định pháp luật hiện hành
trong việc nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con, từ đó đưa ra
các đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung phù hợp, kịp thời, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con trong vụ án hôn nhân và gia đình.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn dự kiến được thể hiện ở những nội dung:
- Thứ nhất, vì là luận văn nghiên cứu theo định hướng ứng dụng, nên luận văn
sẽ có những phát hiện và giải quyết một cách triệt để từ mặt lý luận đến thực tiễn và
8
đưa ra giải pháp cho từng vấn đề cụ thể, như việc giải quyết nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con...đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật,
dẫn đến án bị kháng cáo, kháng nghị, hủy, sửa...
- Thứ hai, luận văn chỉ ra những hạn chế về mặt nghiệp vụ do nhận thức của
người tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật hoặc là do vướng mắc, bất
cập của pháp luật hoặc nhận thức, áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất và đề ra các
giải pháp, kiến nghị đảm bảo vừa hợp tình, vừa hợp lý, hợp với truyền thống đạo đức
của dân tộc; cũng như bảo vệ thực hiện nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giữa
cha mẹ và con để từ đó có thể được sử dụng tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ
sung luật HN&GĐ.
- Thứ ba, từ việc chỉ ra những vướng mắc, bất cập và kiến nghị hướng hoàn
thiện các quy định của pháp luật, luận văn sẽ là cơ sở tham khảo cho các công trình
nghiên cứu sau này về vấn đề HN&GĐ nói chung và giải quyết nghĩa vụ và quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con trong vụ án HN&GĐ nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con
Chương 2. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng của con đối với cha mẹ
9
CHƯƠNG 1. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG
CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi hình thành và giáo dục nhân cách của
mỗi người, trong gia đình luôn tồn tại mối quan hệ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau dựa
trên nền tảng hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng1
. Trong đó, mối quan hệ giữa cha
mẹ và con được xem là cơ bản, thể hiện ý thức, trách nhiệm, tình yêu thương và không
chỉ chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức mà còn bởi các quy định của pháp
luật HN&GĐ 2
. Giữa họ luôn tồn tại mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, hình thành
nên quyền và nghĩa vụ. Đây là mối quan hệ hai chiều. Con sinh ra, không phụ thuộc
vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ, đều có quyền được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng
và ngược lại đều có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ của mình. Ở Chương 1 sẽ trình
bày chiều đầu tiên, quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con,
đây là nội dung chủ yếu, quan trọng và cơ bản nhất.
1.1. Về đánh giá khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng con để xác định người
trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con
Pháp luật quy định về quyền cũng như nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con
cái của cha mẹ. Tuy nhiên, việc đánh giá như thế nào về việc hoàn thành các nghĩa
vụ trên thì luật không điều chỉnh được hết. Đây cũng chính là căn cứ đôi khi được
vận dụng để xem xét về quyền được nuôi dưỡng con, thay đổi người trực tiếp chăm
sóc nuôi dưỡng con sau ly hôn. Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn rất rõ ràng, có thể
thấy, việc xác định người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con sau ly hôn phụ thuộc
vào sự thoả thuận của vợ và chồng, trong đó, nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì cần
tôn trọng và xét đến mong muốn của con.
Vấn đề đặt ra là, nếu vợ chồng không đạt được thoả thuận thì vụ việc được
xử lý như thế nào. Toà án là cơ quan giải quyết nội dung này, song tiêu chí để Toà
án xác định lại chưa được Luật HN&GĐ quy định một cách cụ thể và rõ ràng, Luật
chỉ đưa ra một cơ sở bao quát là “căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con”. Các
1 Nguyễn Văn Quyền (2014), Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.01.
2 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” (Tái bản có
sửa đổi, bổ sung), NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr.14.
10
mặt có thể bao gồm vật chất hoặc tinh thần, vậy nên ưu tiên cái nào hơn cái nào?
Điều này dẫn đến việc thực tiễn vẫn còn một số khó khăn nhất định, đôi khi các Toà
án “tự đặt ra” những cách nhận định và làm cho hướng áp dụng pháp luật chưa được
thống nhất.
Nhiều trường hợp người ta căn cứ vào điều kiện vật chất của cha hoặc mẹ,
đôi khi là sự quan tâm, chăm sóc và thời gian dành cho con của ai nhiều hơn. Xét
vụ việc thứ nhất thể hiện tại Bản án số 01/2020/HN&GĐ-PT ngày 06/01/2020 về
tranh chấp thay đổi người chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của TAND thành phố
Hà Nội. Theo đó, anh NVT và chị NTH được TAND huyện Mê Linh giải quyết cho
ly hôn, chị NTH được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Gia Huy, còn anh
NVT được nuôi cháu Nguyễn Thành Long. Sau đó, anh NVT cho rằng, khi ly hôn,
anh vẫn trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huy từ đó đến nay, chị NTH không đến đón,
thăm nom chăm sóc hay có trách nhiệm gì với cháu Huy. Chị NTH có yêu cầu thi
hành án nhưng khi cháu Huy được giao cho chị NTH thì cháu Huy không theo. Hiện
nay chị NTH không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Huy. Để
đảm bảo cuộc sống của cháu Huy ổn định và phát triển sau này, anh NVT khởi kiện
yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, đề nghị Tòa án giao cho anh NVT trực
tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả 02 con chung là Nguyễn Thành Long và Nguyễn Gia
Huy đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của Tòa án.
Song, chị NTH cho rằng, anh NVT không thường xuyên có mặt ở nhà để chăm sóc
con. Anh NVT không có việc làm và không có thu nhập ổn định nên không đảm
bảo cuộc sống cũng như trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Huy. Bản
án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của anh NVT.
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng “cháu Nguyễn Gia Huy còn nhỏ, rất cần sự
chăm sóc của người mẹ. Việc anh NVT khởi kiện thay đổi người nuôi con không
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật HN&GĐ, nên Tòa án cấp sơ
thẩm đã không chấp nhận đơn khởi kiện của anh là phù hợp với quy định của pháp
luật”. Như vậy, Tòa cấp phúc thẩm không xét đến yếu tố về kinh tế mà dựa vào độ
tuổi của cháu Nguyễn Gia Huy, cháu còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ.
Tác giả cho rằng, chỉ dựa vào yếu tố này là không đủ để thuyết phục. Mặc dù pháp
luật không đưa ra một căn cứ nào về việc đánh giá khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng
con của ai sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, cần dựa vào những tiêu chí nhất định, cơ bản để xem
xét chứ không chỉ định tính cho từng trường hợp với đa dạng các góc độ. Chẳng hạn,