Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)
PREMIUM
Số trang
176
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1281

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGUYỄN THỊ BÍCH

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ

TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975

(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU,

NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGUYỄN THỊ BÍCH

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ

TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975

(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU,

NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 62. 22. 01. 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS. TS. Nguyễn Thị Bích Thu

2. PGS. TS. Đào Thủy Nguyên

THÁI NGUYÊN - 2014

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa

từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2014

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Bích

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan................................................................................................................i

Mục lục........................................................................................................................ii

Danh mục chữ viết tắt ................................................................................................iv

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................4

4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5

5. Đóng góp mới của luận án ......................................................................................6

6. Cấu trúc của luận án................................................................................................6

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...................................7

1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự ....................................................7

1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt

Nam sau 1975............................................................................................................10

1.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975

của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ..........................................18

1.3.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975

của Nguyễn Minh Châu ............................................................................................18

1.3.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau

1975 của Nguyễn Khải..............................................................................................21

1.3.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975

của Ma Văn Kháng....................................................................................................24

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC.

KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 ....................... 28

2.1. Một số vấn đề cơ bản của tự sự học ...................................................................28

2.1.1. Người kể chuyện .............................................................................................28

2.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật......................................................................................32

2.1.3. Giọng điệu trần thuật.......................................................................................36

2.2. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975...................................................40

2.2.1. Quá trình vận động của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay .............40

iii

2.2.2. Đổi mới tư duy nghệ thuật ..............................................................................43

2.2.3. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong dòng chảy của

truyện ngắn Việt Nam sau 1975................................................................................48

CHƢƠNG 3: NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN SAU

1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG....56

3.1. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,

Ma Văn Kháng ..........................................................................................................56

3.1.1. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên ngoài.................................56

3.1.2. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên trong .................................63

3.1.3. Người kể chuyện ẩn mình dịch chuyển điểm nhìn .........................................69

3.2. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,

Ma Văn Kháng ..........................................................................................................80

3.2.1. Người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất kể theo điểm nhìn đơn tuyến .............80

3.2.2. Nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn đa tuyến.....................89

CHƢƠNG 4: GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU

1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG........101

4.1. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca .......................................................................101

4.2. Giọng điệu trào lộng, châm biếm.....................................................................113

4.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm........................................................................120

4.4. Giọng điệu trầm tư, triết lí................................................................................130

4.5. Sự kết hợp, đan xen nhiều giọng điệu..............................................................139

KẾT LUẬN............................................................................................................147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌ C CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................151

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152

Phụ lục....................................................................................................................167

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CTNT: Cốt truyện nghệ thuật

ĐNBN: Điểm nhìn bên ngoài

ĐNBT: Điểm nhìn bên trong

ĐNĐaT: Điểm nhìn đa tuyến

ĐNĐT: Điểm nhìn đơn tuyến

ĐNPH: Điểm nhìn phức hợp

ĐNNT: Điểm nhìn nghệ thuật

NKC: Người kể chuyện

NT1: Ngôi thứ nhất

NT2: Ngôi thứ hai

NT3: Ngôi thứ ba

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Roland Barthes từng nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự

sự” (câu nói quen thuộc ở phương Tây “History is astory / L’Hi storie est unrécit”)

[165, tr. 12]. Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử loài

người nhưng tự sự học (Narratology - một bộ môn nghiên cứu đặc thù của lí luận

văn học, lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng nghiên cứu) thì phải đến thế kỉ XX mới

được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trở thành một lĩnh vực học thuật được quan

tâm. Những năm 60 của thế kỉ XX, các nhà lí luận Pháp đã đề cập về tự sự học và

giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng. Sau đó là các nhà nghiên cứu của Mĩ,

Anh, Trung Quốc... Ở Việt Nam, tự sự học nhanh chóng trở thành lĩnh vực thu hút

các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình đã lấy lí thuyết tự sự làm cơ sở để khám phá

cấu trúc văn bản truyện kể. Như vậy, tự sự học là “bộ phận không thể thiếu của

hành trang nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn,

thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình (paradigme) lí luận hiện đại” [165, tr. 11].

Hơn nữa, tự sự học có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nó không đơn thuần là

nghiên cứu các thể loại tự sự văn học mà còn nghiên cứu những lĩnh vực phi văn

học như điện ảnh, nghệ thuật thị giác… Mieke Bal cho rằng, tất cả các khách thể

văn hoá (bộ luật, tranh ảnh, tư liệu lịch sử…) đều ít nhiều có liên quan đến tự sự.

Trần Đình Sử đã khẳng định tự sự học là “một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu

tiềm năng” [165, tr. 10]. Vì vậy, tự sự là một thái độ văn hoá và nghiên cứu tự sự

cũng là nghiên cứu văn hoá.

Lí thuyết tự sự nghiên cứu nhiều phương diện phong phú và đa dạng liên quan

đến nghệ thuật trần thuật (loại hình trần thuật, cốt truyện, nhân vật, người kể

chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu...) với nhiều quan điểm khác nhau. Vận dụng

lí thuyết tự sự để nghiên cứu văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải “nhìn” từ góc

độ thi pháp. Luận án của chúng tôi vận dụng lí thuyết về ngôi kể, điểm nhìn và

giọng điệu trần thuật trong cấu trúc văn bản truyện kể để nghiên cứu nghệ thuật tự

2

sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng).

1.2. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến

chống Mĩ cứu nước. Đất nước trở lại quỹ đạo thời bình, xã hội trong cơn chuyển

mình lớn và đối mặt với biết bao những vấn đề riêng - chung cần giải quyết. Các

nhà văn Việt Nam thoát ra khỏi ánh hào quang của những hình mẫu kì diệu và lí

tưởng để trở về nhịp điệu cuộc sống đời thường với tất cả những biểu hiện đa dạng,

phức tạp của nó. Sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người đã “mở

rộng biên độ” của văn học. Văn học tiếp cận đời sống một cách biện chứng. Người

viết cũng có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, tính dân chủ được thể hiện rất

rõ. Nhà văn không có quyền áp đặt người đọc theo một tư tưởng có sẵn. Độc giả

cũng có quyền lựa chọn tác giả phù hợp với thị hiếu của riêng mình. Tác giả - nhân

vật và người đọc được đặt trong mối quan hệ đa chiều để tranh biện và đi tìm chân

lí. Người viết thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với bạn đọc.

Các điểm nhìn trần thuật được gia tăng và gắn với nó là sự phong phú về giọng điệu

trần thuật. Điều này thể hiện khá rõ trong truyện ngắn. Truyện ngắn đã chứng tỏ là

thể loại năng động, có khả năng nắm bắt vấn đề một cách nhanh nhạy, kịp thời mà

vẫn chuyển tải được những vấn đề quan trọng của đời sống đương thời. Thể loại

này mang trong nó những dấu hiệu của sự vận động và biến đổi với nhiều khuynh

hướng khác nhau: truyện ngắn viết theo lối truyền thống và tuân thủ những đặc

trưng vốn có của thể loại; truyện ngắn cách tân trên nền truyền thống; truyện ngắn

cách tân theo hướng hiện đại. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn của ba tác

giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng (những nhà văn sáng tác

theo khuynh hướng cách tân trên nền truyền thống) từ góc nhìn tự sự để thấy được

sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và sự vận động của cấu trúc thể loại trong bối

cảnh mới.

1.3. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải

và Ma Văn Kháng là những cây bút có “thương hiệu”. Họ đã góp phần làm nên diện

mạo của văn học Việt Nam trong thời kì mới. Nguyễn Minh Châu được coi là một

3

hiện tượng của văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỉ XX. Với quan niệm “nhà văn

phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh”, Nguyễn

Minh Châu đã khắc khoải về nhân sinh để đi tìm những “hạt ngọc” cho đời. Là một

nhà văn suốt đời khao khát đi tìm cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn

Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông có một vị trí đặc biệt quan

trọng - người “tiền trạm đổi mới” (Phong Lê), “người mở đường đầy tài hoa và tinh

anh” (Nguyên Ngọc) trong nền văn học đương đại Việt Nam. Còn Nguyễn Khải lại

được đánh giá là một trong số ít người viết mà đời người, đời văn có mối liên quan

chặt chẽ. Suốt nửa thế kỉ lao động sáng tạo, ngòi bút của ông đã gắn bó với lịch sử

dân tộc. Bằng cái nhìn đa chiều, đa diện, Nguyễn Khải thể hiện trong sáng tác của

mình nhãn quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. “Muốn hiểu con người thời đại

với cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, phải đọc Nguyễn

Khải” [20, tr. 61]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng

là cây bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh và tài năng. Con người trước lăng kính tâm

hồn nhà văn không chỉ là đối tượng ngợi ca mà còn là tiêu điểm để “đào bới bản

thể ở chiều sâu tâm hồn” (Lã Nguyên).

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những đại biểu tinh anh

của phong trào đổi mới văn học sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong

chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những

tác giả có nhiều bạn đọc. Cả ba nhà văn đều là những tấm gương lao động sáng tạo

và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh - giải thưởng cao quý về văn học nghệ thuật.

Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nghệ thuật tự

sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh

Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)”. Ở luận án này, chúng tôi tiếp cận truyện

ngắn của ba tác giả tiêu biểu thuộc thế hệ “3X” (Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930,

Nguyễn Khải sinh năm 1930 và Ma Văn Kháng sinh năm 1936) có cùng một hành

trình, cùng một khởi điểm, cùng chung một mô hình sáng tác của cùng một thế hệ

nhà văn (mở đầu cho văn học đổi mới và đều viết theo lối cách tân trên nền truyền

thống) từ góc nhìn thi pháp để thấy được sự chuyển động của thể loại truyện ngắn

trong bối cảnh mới của đời sống văn học.

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm rõ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện

ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ở phương diện ngôi

kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật.

- Tìm ra những điểm chung của thế hệ, điểm riêng trong phong cách của từng

tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận động, đổi mới thể loại

truyện ngắn Việt Nam sau 1975.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Vận dụng lí thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích truyện ngắn

sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật

giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của các tác phẩm, thấy được điểm chung,

điểm riêng của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.

- Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng

trong thế đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để chỉ ra những nét riêng biệt,

những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh, thấy

được đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự.

- Thông qua việc tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của truyện ngắn Nguyễn

Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định

diện mạo tinh thần, vai trò, vị trí của họ trong sự vận động của thể loại truyện ngắn

Việt Nam sau 1975 nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản như

ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua

truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều phương diện. Ở

luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu

trần thuật. Đó là những yếu tố nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.

5

- Phạm vi tư liệu:

+ Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào những sáng tác sau 1975. Đặc

biệt, chúng tôi chú ý những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn:

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (2006) của Nhà xuất bản Văn học;

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2007) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn; Truyện

ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng (2002) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

+ Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn cùng thế hệ và khác thế hệ (các

nhà văn “6X”, “7X”, “8X”, “9X”) để so sánh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong luận án này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:

4.1. Phương pháp tiếp cận tự sự học

Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích, lí giải những cách tân trong truyện ngắn

sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.

4.2. Phương pháp thống kê

Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó có

thể đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của nghệ thuật tự sự trong

truyện ngắn của ba nhà văn mà luận án quan tâm.

4.3. Phương pháp hệ thống

Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn truyện ngắn của ba nhà văn như một hệ

thống và đặt nó trong hệ thống lớn hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.

Đồng thời có thể đưa ra đánh giá về những đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật

trần thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng một cách khách

quan và toàn diện.

4.4. Phương pháp loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại

Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về phương diện nghệ thuật

trần thuật, chỉ ra các kiểu, dạng NKC, phương thức trần thuật và giọng điệu trần

thuật… từ góc nhìn thể loại.

4.5. Phương pháp so sánh

Để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi so sánh truyện ngắn

của ba nhà văn với nhau và với truyện ngắn của các nhà văn khác, đồng thời đối

6

chiếu truyện ngắn của ba nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. Từ đó,

chỉ ra những vận động về nghệ thuật trần thuật.

4.6. Phương pháp tổng hợp

Phương pháp này giúp chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích

ngữ liệu cụ thể.

5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới và ở

Việt Nam để mô tả, phân tích sâu một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự

như: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nội

dung, nghệ thuật của các tác phẩm. Từ đó, người viết xác định điểm tương đồng và

khác biệt trong nghệ thuật tự sự và trong phong cách nghệ thuật của ba tác giả.

- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự

sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp

to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó,

người viết khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong

truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn

mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975.

- Từ thực tiễn sáng tác của ba nhà văn, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn

của họ ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của các nhà văn

khác, luận án chỉ ra sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.

- Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học

tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các trường đại học, cao đẳng, trung học.

6. Cấu trúc của luận án

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về truyện ngắn Việt

Nam sau 1975

Chương 3: Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn

Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng

Chương 4: Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn

Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng

7

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự

Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại” [165, tr. 11]. Chủ nghĩa

hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski (1893 - 1984), B. Eikhenbaum

(1886 - 1959), B. Tomachevski (1890 - 1957)… đã đặt nền móng cho những cơ sở

ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự

sự ở phương diện lí thuyết như: kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ

thuật tổ chức thời gian…

B. Tomachevski vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận Hệ chủ đề,

ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp của cốt truyện. Ông phân biệt

khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sujet): “tuyến hành động liên quan đến

chuyện kể, còn tuyến trần thuật thì liên quan đến cốt truyện ” (dẫn theo [165, tr. 30]).

Ông phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời

trình bày nhiều thủ pháp như: trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật,

đảo lộn thời gian…

V. Shklovski qua các tiểu luận Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp, Cấu trúc của

truyện ngắn và tiểu thuyết… cho rằng: “Nhiều tác phẩm tự sự là một tổ hợp các

kết cấu vòng tròn và kết cấu bậc thang, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành

những tầng nấc kế tiếp nhau” (dẫn theo [165, tr. 31]). Ông còn nói đến “thủ pháp

đóng khung” và “thủ pháp xâu chuỗi” (dẫn theo [165, tr. 32]) trong văn tự sự.

B. Eikhenbaum trong tiểu luận Về lí thuyết văn xuôi đã cho rằng:

“Truyện ngắn là hình thức sơ yếu của văn xuôi”, “nhà văn thường xây dựng

truyện ngắn trên cơ sở một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương

phản” (dẫn theo [165, tr. 34]).

Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng

góp phần hình thành bộ môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những

tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… Chủ nghĩa cấu

trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. R.Barthes mở đầu với công trình Dẫn luận

8

phân tích tác phẩm tự sự (1968) và S/Z (1970) (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển

sang hậu cấu trúc chủ nghĩa). Todorov là một trong những người đầu tiên đề xuất

thuật ngữ tự sự học với chuyên luận Thi pháp văn xuôi. Todorov còn có công trình

Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”… Từ góc độ ngữ pháp, Todorov coi “nhân vật

như danh từ, tình tiết là động từ” (dẫn theo [165, tr. 14]), G. Genette thì tuyên bố

“mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu” (dẫn theo [165, tr. 14]), R. Barthes

cũng tán thành quan điểm đó… Như vậy, mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là “nghiên

cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự” (dẫn theo [165, tr. 14]).

Tiếp theo phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M.

Bakhtin, Iu. M. Lotman, B. Uspenski… Các tác giả này quan tâm đến các phương

thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean - Claude Coquet).

Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm.

Tổng quan quá trình nghiên cứu của lí thuyết tự sự, nhà lí luận Mĩ Gerald

Prince đã chia làm ba nhóm theo ba loại hình như sau: Nhóm thứ nhất (gồm những

nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp,

Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau…)

chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng

biểu đạt của chất liệu; nhóm thứ hai (gồm G. Genette, Dolezel, Micke Bal…) xem

nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là

quan trọng nhất; nhóm thứ ba (đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman) lại

coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể.

Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của

cấu trúc tự sự với các vấn đề cần phải tìm tòi, suy ngẫm như vấn đề NKC, điểm

nhìn, dòng ý thức, không gian, thời gian, giọng điệu nghệ thuật… Lí thuyết tự sự sẽ

giúp cho ta nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác

phẩm văn học cụ thể nói riêng, qua đó cho thấy cả truyền thống văn học, văn hoá

của mỗi dân tộc.

Ở Việt Nam, năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ

chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn

9

nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược

những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon,

Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự

sự học. Trong công trình Dẫn luận thi pháp học [167], Trần Đình Sử đã xác định vị

trí của thi pháp học trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng phạm trù và phương

pháp nghiên cứu thi pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm

thuộc về trần thuật học như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian - không

gian nghệ thuật, tác giả và kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu

trúc của văn bản trần thuật, ngôn từ nghệ thuật…

Trần thuật học - Nhập môn lí thuyết trần thuật học của tác giả Manfred Jahn

công bố vào ngày 28 - 07 - 2003 [131], đăng tải trên trang web http://www.uni￾koeln.de đã xây dựng một hệ thống những khái niệm nền tảng về truyện kể và chỉ ra

cách sử dụng chúng khi phân tích tác phẩm. Những định nghĩa này được dựa trên

một loạt bài nhập môn cổ điển như cấu trúc của trần thuật, kể chuyện tiêu điểm và

tình huống trần thuật, thì, thời và thức trần thuật, nhân vật và diễn ngôn…

Cao Kim Lan trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và

R. Kellogg [113] đã dựa vào cuốn Bản chất của tự sự (The nature of Narrative,

Oxford University, tái bản 1968) để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi

phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của NKC với điểm nhìn của

nhân vật, điểm nhìn của NKC và điểm nhìn của người đọc…

Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần

thuật [201] đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ thống với

những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ hai vấn

đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là tình huống trần thuật và

người nghe chuyện.

Một trong những công trình có ý nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự

vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [165] do

Trần Đình Sử chủ biên. Trong đó, Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của

Northrop Frye [165, tr. 56 - 70]. Tác giả giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!